Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2010

NGẪM THẾ SỰ...


Hôm nay trường tổ chức chia tay hiệu phó nhà trường nghỉ hưu.
Bốn mốt năm công tác gõ đầu trẻ ở cái nhà trường này. Nay anh phải xa. Cả người ở người về đều cảm động.
Anh tâm sự: về rồi chẳng tiếc gì đâu. Nhưng những đêm ngủ thấy nhớ trường khủng khiếp. Cứ như mình còn đang công tác.
Bọn chúng tôi sợ anh sốc, anh hẫng hụt... Vì chúng tôi đã từng thấy nhiều ông lúc còn công tác phong độ hiên ngang, tinh thần phơi phới… về hưu được mấy ngày trông tiều tụy như thằng chết toi, vào ra ngơ ngẩn…
Cả bọn động viên, anh sống vui, sống khỏe…
Anh cười: các bạn lo vớ vẩn. sao mà tôi hẫng hụt được, sao mà tôi phải sốc. Nhớ là nhớ công việc, nhớ cái nghề của mình. Việc gì phải sốc, phải hẫng hụt
- Nhưng các ông kia…?
- Ồ kệ họ! Họ đang sống sung sướng, lắm bổng lộc…thì họ lo, họ buồn, họ tiếc khi phải nghỉ hưu. Chứ còn anh em mình nghỉ hưu hay làm việc thì có thay đổi gì đâu. Có mất gì đâu, có thêm gì đâu mà tiếc…
- Nhưng…
- Lại nhưng nữa rồi. Đơn giản thế này thôi, ông cũng đang muốn nghỉ phải không nào. Vì ông có trách nhiệm nhưng sợ không làm hết trách nhiệm nên muốn nghỉ. Nếu không được nghỉ thì ông vẫn phải cố hết sức mình. Nhưng chắc chắn không bao giờ ông ham hố.
-Nhưng tôi thấy có ông nhà thơ to lắm làm đến Ủy viên Bộ Chính trị lúc phải nghỉ hưu cũng bực bội hẫng hụt… bất mèo bất mãn đến mức định rủ các đồng chí khác lên rừng… làm cách mạng lần nữa.
- À vậy thì mình không biết. Đấy là công việc của những nhà cách mạng chuyên nghiệp.
Anh em mình chỉ là nhà giáo thôi. Đọc thêm!

Thứ Năm, 7 tháng 1, 2010

Cụ Lý ơi! ơi Cụ Lý!



TRUYỆN NGẮN

Mất điện. Bữa nhậu góp cũng đến lúc phải tàn. Mọi người giải tán. Hắn ngật ngưỡng về nhà, vừa đi theo kiểu vặn thừng vừa huýt sáo. Lòng lâng lâng. Vui, vui sao quá sá là vui…Bữa rượu tối nay thế mà vui. Đứa góp rượu, đứa góp nhắm. Hắn góp một cái đầu bò. Chỉ mất cái đầu bò mà lại được đàn em nức nở khen đại ca hào phóng. Ở cái xã này chỉ có đại ca là búa bổ. Này nhá: về nghề nghiệp thì huynh đệ ta đều trong ngành kinh doanh giết mổ. Nhưng đại ca có cơ cấu làm ăn lớn. Đúng. Đúng là lớn vì đại ca kinh doanh giải phẫu đại gia súc (ấy là nói việc hắn chuyên giết mổ trâu bò). Còn bọn chúng em chỉ loanh quanh giải phẫu mấy con ỉn còi với lợn sề thải, vốn liếng lãi lờ chỉ bằng phần mười của đại ca. Về hạnh kiểm thì đại ca là người trượng nghĩa, bọn đệ gặp khó khăn là đại ca vung dao bầu sẵn sàng bảo vệ, cứ như Lục Xuân Tiên… Ngu lại còn hay nói sách! Lục Vân Tiên chứ. À vâng… đúng rồi. Lục Vân Tiên. Còn về đường thê tử thì lại càng nhất. Này nhá: đại tỷ chân dài eo dây như người mẫu chứ chả như bọn nái sề nhà chúng em béo nứt béo trương. Mẫu cái con khỉ! Chỉ được cái nước khéo nịnh, đàn bà nhà tao gầy teo gầy tóp trông như con cá khô. Thằng nào thích, tao cho không. Ấy chết! Đại ca lại khiêm tốn, bọn đệ đâu dám. Để đệ nói tiếp: Quý tử của đại ca lại học giỏi nhất trường, cứ mỗi lần họp phụ huynh nghe các thầy hết lời ngợi ca thằng bé là bọn đệ cũng thơm lây. Cháu là Tấm gương sáng, niềm tự hào của con em trong ngành. Đại ca lại còn là hội trưởng phụ huynh của lớp. Đúng là nhất đấy! Búa bổ đấy!
Hắn nghe mà nở từng khúc ruột. Mặt giãn ra, hai cánh mũi phập phồng. Đúng thật. Búa bổ thật. Thằng con hắn mới học có lớp tám trường làng nhưng bao giờ cũng đứng đầu toàn khối. Đi thi huyện còn đạt giải. Được ông Trưởng phòng tặng giấy khen. Cái giấy đó được hắn lồng khung kính treo trên cùng trong đám giấy khen đỏ rực chiếm đến vài mét vuông của bức tường gian giữa. Để mà tự hào, để mà nở mũi nở mặt. Ai đến nhà hắn cũng khoe. Mà khoe cũng phải. Con hắn thông minh tức là cái gien nhà hắn thông minh. Giống nhà hắn thông minh. Khoái thật…
Dưng mà… say quá rồi. Phải về nhà làm một giấc để 3 giờ sáng còn giết bò. Dưng mà… mất điện, nóng thế này thì ngủ thế chó nào được. Cái ngành điện đến là chối tỷ. Cắt điện nhiều là để doạ, là để chuẩn bị tăng giá đây. Lại lý do chi phí đầu vào tăng. Ông đếch sợ! Anh tăng giá điện, tôi tăng giá thịt bò! Cũng lý do chi phí đầu vào tăng. Ông chẳng thiệt. Hay thật! Chẳng có thằng nào chịu thiệt cả… Dưng mà… thằng con phải thắp nến ngồi học. Rồi thì mắt lòi ra. Rồi thì muỗi nó đả cho đến đỏ đít, sưng chân chứ chả chơi. Rõ khốn nạn! Rốt cuộc mình vẫn thiệt. Thiệt đến đời con. Cứ cái kiểu này đến cả đời cháu…
Nhìn cái bóng mình xuyệch xoạc trên đường, hắn chợt nhận ra: trăng sáng quá. Mà hình như trăng đầu tháng. Hắn ngẩng nhìn trời. Đúng thật. Trăng chưa đầy nhưng trời trong lắm. Và hắn chợt nhớ ra hình như con hắn đã thi cuối năm, sắp nghỉ hè… Việc đếch gì phải học nữa. Thôi, yên tâm. Trăng sáng thế này thì cứ thong thả mà về. Tội gì mà phải vội! Vừa đi vừa ngắm trăng cho nó sướng. Vậy là hắn ngửa mặt nhìn trăng, chân bước xiêu vẹo, miệng ngâm nga vui sao quá sá là vui…
Huỵch, hắn ngã chúi về phía trước, hai tay loạng quạng chống xuống đường. Còn may chán. Đầu, mình, tay không hề gì. Chỉ thấy ngón chân đau nhói. Thôi chết! Bị thương chảy máu rồi. Tại say quá, quên cả dép ở chỗ uống rượu. May mà cũng sắp đến nhà. Hắn vừa xuýt xoa vừa co cái chân bị thương nhảy lò cò về nhà. Không khéo long móng thì bỏ mẹ. Còn làm ăn gì được.
Nhà tối om. Hắn quát: “Sao tối như đêm năm mươi thế này”. Vợ hắn lập cập chạy ra thắp nến. Xong rồi thị lại biến mất. Hắn ngồi phệt xuống nền nhà, giơ cái chân đau lên ngang mặt, với tay lên bàn lấy tý thuốc lào rịt vào chỗ đau. Rồi vẫn cái tư thế ấy, hắn gọi:
-Thằng cò đâu! Đi lấy cho tao đôi dép.
Vợ hắn lại hiện ra y như có phép tàng hình:
- Nó đang nằm khóc ở trong nhà…
- Sao mà phải khóc? Tao đã chết đâu mà phải khóc!
Miệng thì quát vậy nhưng trong lòng hắn lại thấy rưng rưng. Đúng là thằng con vừa giỏi giang vừa có hiếu. Mình chỉ bị sơ sơ vậy mà nó đã…
- Không phải- Vợ hắn thẽ thọt- Nó khóc vì thi bị điểm kém.
Hắn nhổm người, quên cái chân đang bị đau:
- Sao lại điểm kém? Loại đàn bà ngu không biết cái gì chỉ nói bừa. Điểm kém là kém thế nào?
Vợ hắn chống chế một cách yếu ớt:
- Thì tôi biết đâu đấy. Đi mà hỏi nó.
Nói rồi vợ hắn lại biến mất. Hắn hạ cái chân đau xuống, tay bấu vào cạnh bàn kéo người ngồi lên ghế. Khi cái mông đã yên vị thì cái chân đau cũng được kéo lên và cái mồm bắt đầu dõng dạc:
- Thằng cò! Ra đây tao hỏi!
Im lặng. Hắn phải ngồi đợi đến vài phút. Chưa thấy quý tử ra trình diện. Thánh chỉ được nhắc lại lần nữa. Vẫn không có hiệu lực. Hắn điên lắm rồi. Mày cậy mày giỏi mày dám kháng chỉ à. Phải cho thằng này một trận. Quên hẳn cái chân còn đau, hắn tìm công cụ để trừng phạt tội khi quân. Tìm khắp trong nhà, ngoài sân không có cái gì khả dĩ có thể làm được việc ấy, hắn hùng hục ra dãy chuồng bò. Trong nhập nhoạng, loạng quạng chân đau, hắn bước phải cái vũng nước ngay cửa chuồng. Nước bắn tung toé. Mùi khai nồng nặc. Bỏ mẹ rồi. Dẫm phải nước đái bò! Giời ơi! Cái ngón chân sao mà buốt thế, xót thế! Cơn tức nhân lên. Giật cái roi mây trên mái chuồng thường ngày vẫn dùng đuổi bò, chân khập khiễng, mặt đằng đằng sát khí, hắn quay vào nhà. Tay nhăm nhăm cái roi, hắn gầm lên vẫn cái mệnh lệnh ấy. Lần này thì mệnh lệnh mới có hiệu lực. Trong buồng có tiếng thì thào. Lát sau, thấy nhô ra một cái đầu bù xù cùng với khuôn mặt loang lổ bóng tối, hai mắt sưng húp chắc là do khóc nhiều. Quý tử của hắn nem nép ra trình diện. Phải hỏi cho đến đầu đến đũa. Không thể lơ mơ được! Dạy con là phải thế! Hắn ngồi xuống ghế. Roi mây để trên bàn- sau khi đã gạt ấm chén sang một bên.
- Mày đứng đấy! Báo cáo công khai điểm thi?
Thằng bé cúi mặt không trả lời. Hắn nhắc:
- Toán?
- Mười ạ!
- Được!- Hắn phán bằng một giọng vừa tự hào vừa kẻ cả- Lý?
- Chín ạ.
- Sao lại chín? Nhưng cũng tạm được- Cái giọng hắn chùng xuống một tý-Vậy còn Hoá? Hoá được mấy?
- Hoá cũng được chín.
- Chỉ có vậy thôi à! Tao tạm chấp nhận. Có thể còn sai sót tí chút- Hắn lúc lắc cái đầu ra vẻ am hiểu và thông cảm- Lần sau phải nghiêm túc rút kinh nghiệm. Thế còn Văn?
- ……..
Chát! Hắn vung cái roi mây quật xuống mặt bàn. Mặt bàn rung lên bần bật. Cốc chén va vào nhau canh cách.
Cậu quý tử vẫn đứng im, mặt cúi gằm. Nhìn thấy cái dáng như vậy của con, hắn thấy nó hèn hèn. Cơn giận lại trào lên, hắn thẳng cánh với người vụt vào mông thằng bé:
- Tao hỏi, mày dám không trả lời hả? Không có quân trị quân nhậm gì nữa hả? Mày có nói không? Văn được mấy? Nói!
Thằng bé co dúm người lại, hai tay xoa mông. Cái đòn trừng phạt bất ngờ làm cho nó không kịp đỡ. Đành phải nói thôi. Không chừng cái roi…
-Văn được… có… có ba.
Hắn tưởng nghe nhầm. Hỏi lại. Nhưng khi đã được khẳng định là tai hắn vẫn còn đủ độ thính cần thiết thì hắn uất lắm. Bọn đệ tử vừa mới khen xong, hắn cũng vừa vênh mặt tự hào với chúng nó xong. Nhục quá! Thế nào ngày mai bọn nó cũng ra vẻ an ủi mình. An ủi đấy nhưng hắn chắc bọn nó đang sướng thầm: vậy ra quý tử của đại ca cũng chẳng hơn gì. Con em trong ngành ta đều thế cả! Dưng mà thằng con hắn có bao giờ bị điểm kém môn văn? Rồi hắn hỏi một câu vô lý mà nếu có bắt hắn trả lời thì hắn cũng chịu: “Tại sao lại chỉ có ba?” Để chữa cái vô lý ấy, hắn hỏi tiếp: “Tại mày không học hay tại thầy giáo chưa dạy?”
- Không phải tại con không học, cũng không phải thầy giáo chưa dạy.
- ? ? ?
- Tại đáp án! Ra đề một đằng, đáp án một đằng!
Hắn hiểu lơ mơ hình như đáp án là cái câu trả lời cho cái đề bài để người ta dựa vào đấy mà chấm bài. Nhưng làm gì có chuyện ấy được. Theo như ông hiệu trưởng nói hôm họp Ban Đại diện phụ huynh thì Phòng Giáo dục ra đề thi cuối năm học…
- Trên Phòng toàn là người đầu óc thông minh sáng láng, đã tốt nghiệp Đại học, trên cả Đại học, học hành tốn kém cơ man cơm gạo… Chả nhẽ người ta lại dốt tới mức cái đề thi của thằng trẻ con mà lại trả lời sai? Láo! Thằng này láo. Học đã không ra gì lại còn bao biện đổ vấy lung tung. Mất dạy này! Mất dạy này! Mất dạy này!...
Mỗi câu “Mất dạy này!” là một lần cái roi vụt xuống. Thằng bé oằn người, cuống quýt lấy tay đỡ. Nhưng nó không khóc. Mắt ráo hoảnh, môi mím lại. Và khi hắn ngừng tay vụt thì thằng bé đứng thẳng nói dõng dạc:
- Bố đếch biết thì thôi. Họ ra đáp án sai thật đấy!
- Nói cụ thể tao nghe xem nào?
Điện bỗng sáng oà lên. Hắn như không nhận ra đứa con của mình, vì khuôn mặt của nó bỗng lạ hẳn. Không còn những nét hồn nhiên thường ngày mỗi khi đi học về nó thường kể những chuyện vui, những điều hay mà nó học được ở trường. Bây giờ mặt nó đanh lại. Mắt thì sưng húp nhưng ráo hoảnh và ánh mắt lộ rõ vẻ bất mãn đến căm hờn. Hắn thấy ngại ánh mắt ấy.
- Thì mày nói cụ thể tao nghe.
Thằng bé nói liền một mạch:
- Đề bài cho nghị luận hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ…
Hắn ngồi xuống vỗ đùi:
- Thì đúng quá đi rồi! Chả thế mà tao có hút thuốc lá đâu. Tao chỉ hút thuốc lào. Thế mày làm như thế nào? Có kể tấm gương bố mày vào đó không? Không à? Vậy thì bị điểm kém là phải- Hắn vò đầu tiếc rẻ.
- Con cũng đã làm là hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ. Nhưng người ta bảo rằng còn thiếu hai luận điểm nữa. Một luận điểm sành điệu tốn tiền, một luận điểm dẫn đến tệ nạn. Đúng như văn mẫu “Tác hại của tệ nạn xã hội” ở trong sách!…
Đến bây giờ thì hắn như lạc vào mê cung, hắn chả biết thế nào là luận điểm, luận điếc, vòng vo loanh quanh. Rõ rắc rối. Cái gì nhỉ: Sành điệu, tốn tiền. Cũng đúng chứ sao. Thế còn chúng nó làm thế nào để được điểm cao?
- Chúng nó làm nguyên xi văn mẫu.
- Thế sao mày không làm như chúng nó?
- Thầy giáo con dạy là phải phân tích đề. Xem kỹ phạm vi của vấn đề cần nghị luận. Con thấy phạm vi của đề này chỉ hạn chế nói về tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ thôi.
Thế này thì đến điên lên mất! Lại còn phạm vi với hạn chế…Chả hiểu ra sao. Vậy mà nó còn dám lý sự với mình. Không ngờ lại đẻ được thằng con lắm lí sự đến thế. Kiểu này ông cho mày ở nhà chăn bò cho mày hết lý sự. Trong khi thằng con ra sức giải thích:
- Con ví dụ thế này: con bò cái nhà ta đẻ được ba con…
Hắn ngắt lời:
- Ngu! Bò chỉ đẻ mỗi lứa một con!
- Ấy là ví dụ thế. Thôi cũng được. Ba lứa ba con. Một con là Sức khoẻ. Một con là Sành điệu. Một con là Tệ nạn. Sáng ngày mai bố bảo người ta giết con Sức khoẻ. Thế thì họ chỉ dám giết con Sức khoẻ thôi phải không nào?
- Dĩ nhiên rồi! Chả nhẽ nó giết cả hai con kia. Có mà tao đập cho bỏ mẹ! Nhưng mà… văn là văn, giết bò là giết bò. Đừng có mà bắt nạt tao. Liệu hồn đấy. Không có lối đâu cứ cãi lại bố chan chát.
Nói như vậy nhưng trong bụng hắn cũng khen thằng con hắn thông minh. Chả biết có thật vậy không, hay thằng này lại nói láo để tránh đòn. Hắn vớt vát hỏi thêm câu nữa: “Chỉ có vậy thôi à. Vậy thì làm sao lại bị điểm kém được?” Tưởng rằng thằng con đã im. Ai ngờ nó còn kể tiếp:
- Còn một câu hỏi trắc nghiệm nữa cũng sai. Đề bài: Tên nước ta ở thời Lý là gì? Cho bốn đáp án: Việt Nam, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt. Chọn lấy một.
- Thế mày bị điểm kém cả môn Sử à?- Hắn vung roi lên- Giời ơi là giời! Mày bán bêu cái mặt tao rồi.
- Không phải Sử. Câu đấy vẫn trong đề thi Văn.
Lại ngạc nhiên. Câu hỏi Sử rõ ràng. Cái ấy thì ai chả biết. Hoạ có thằng ngu mới không biết. Nhưng nó nói là không phải Sử. Lẫn lộn hết. Hay thằng này học nhiều quá đâm ra tâm thần ngộ chữ. Thế thì mất… tương lai con em chúng ta rồi. Hay tại mình sát sinh nhiều quá. Giết lắm bò quá để bây giờ nó oán. Con cắn rơm cắn cỏ cầu xin các bề trên tha tội! Chẳng qua cũng vì cái kế sinh nhai. Con mà được học hành tử tế như người ta thì bây giờ chả đến nỗi khốn nạn thế này. Vất vả suốt ngày suốt đêm để kiếm vài đồng cho con ăn học. Để chúng không phải cái kiếp đói khát thất học như con ngày xưa. Được thằng con thông minh chăm chỉ, đã lấy làm mừng. Ai ngờ… Hay là nó ốm nên nói mê nói sảng?
Hắn tập tễnh đứng lên rồi lò cò nhảy tới, vươn tay định sờ trán con. Thằng bé thấy bố đưa tay ra lại tưởng rằng bố nó chuẩn bị tặng thêm cho cái tát. Nó lùi lại. Do chỉ đứng bằng một chân nên hắn mất đà ngã chúi. Thằng con vì chưa hoàn hồn nên không dám đỡ bố đứng dậy. Vậy là cơn tức của hắn lại dâng lên. Hắn lồm cồm đứng dậy chộp lấy cái roi mây. Nhưng nghĩ thế nào, hắn lại ngồi xuống. Bố con nhà hắn tiếp tục cuộc đấu khẩu:
- Mày lùi lại gần đây! Nói tao nghe! Sai là sai thế nào?
- Sai là ở chỗ bắt chọn một đáp án đúng nhưng có tới ba đáp án đúng. Tại vì có hai thời Lý, cái thời Lý sau lại có hai tên nước với nhiều đời vua. Chúng con chọn cái tên đúng. Nhưng không đúng với đáp án.
- Đúng cả ba thì chọn cái nào cũng được chứ sao. Thế đáp án là gì?
- Đáp án là Đại Việt.
- Thế mày chọn cái gì?- hắn hất hàm hỏi. Thằng con hắn đã bình tĩnh trở lại- Con chọn là Đại Cồ Việt.
À, bây giờ thì hắn nhớ ra. Đại Cồ Việt là tên đặt do ông vua ngày còn bé phất cờ lau tập trận, lại dám bắt trâu của chú ruột đem giết thịt khao bọn trẻ trâu rồi bỏ nhà đi dẹp loạn. Sở dĩ hắn nhớ được điều ấy bởi vì trong thâm tâm hắn coi ông ấy như là vị Tổ nghề giải phẫu đại gia súc của mình(!) Nhưng hắn nhớ ông ấy họ Đinh chứ đâu phải là họ Lý. Vậy ra thằng này mất dạy. Nó tưởng mình không biết. Mày định loè ông à… Một lần nữa thằng con lại oằn người lên đón cái roi phũ phàng của ông bố thông thái. Trừng phạt được thằng con lừa đảo một roi, tự nhiên hắn cảm thấy mãn nguyện về sự thông thái của mình. Đừng tưởng mày bịp được ông nhé! Phải truy tận cùng xem thằng này còn láo được nữa hay không. Hắn dồn: “Mày bảo Đại Cồ Việt là đúng, vậy thầy giáo dạy mày bảo sao?”. Thằng con lùi ra xa, cảnh giác với cái roi trong tay của kẻ cầm quyền thông thái đang nhịp nhịp trên mặt bàn:
- Thầy giáo con bảo chọn Đại Cồ Việt cũng đúng. Vì thời Lý vẫn giữ tên ấy mãi mấy đời vua về sau mới đổi. Thầy con đã xuống Phòng đề nghị nhưng ở Phòng người ta bảo sách giáo khoa nói rõ ràng ghi ở trang 68.
- Thế mày đã xem lại chưa? Chưa à? Vào cầm sách ra đây! Mau!
Thằng bé lập cập vào nhà. Một lát sau nó rón rén bước ra tay cầm cuốn sách giáo khoa Ngữ Văn 8. Tay vẫn nhăm nhăm cái roi, hắn quát bắt mở trang 68. Thằng bé mở sách tìm trang. Nó chăm chú đọc. Và oà lên khóc. Khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc. Những giọt nước mắt vừa như oan ức được cởi bỏ vừa như ngập đến tận cùng của sự ai oán thất vọng. Hắn giằng lấy cuốn sách, mở đúng cái trang thằng bé vừa xem thấy có dòng chữ:
“Đại Việt: Tên nước ta từ đời vua Lý Thánh Tông.”
Hắn gầm lên. “Đúng là Đại Việt từ đời vua Lý Thánh Tông. Lý Thánh Tông là…là… là Lý Công Uẩn(!). Sao thầy trò nhà mày dám bảo là Đại Cồ Việt. Loại ngu lại còn hay cãi chày, cãi cối.”
Thằng con hắn vừa khóc vừa nói trong tiếng nấc:
- Con không ngu… Lý Công Uẩn là Lý Thái Tổ, là vua đầu tiên của nhà Lý vẫn giữ tên nước là Đại Cồ Việt, đời vua con là Lý Thái Tông vẫn giữ nguyên tên ấy… Lý Thái Tổ là ông, Lý Thánh Tông là cháu. Mãi đến đời vua cháu mới đổi tên nước là Đại Việt. Con không sai…!
Cái roi trên tay hắn rơi xuống đất. Hắn nhìn ra cửa: Cảnh vật bên ngoài nhạt nhoà. Hắn tấp tểnh bước ra ngõ. Sao mình lại đánh con?... Nhưng tại ai? Tại ai? Hắn không thể trả lời. Câu hỏi “Tại ai?” cứ lơ lửng ở trong đầu cùng với ánh mắt bất mãn đến căm hờn và tiếng khóc oan ức thất vọng của thằng con ám ảnh hắn... Tại ai? Hay tại cái đầu bò?... Tất cả cứ rối tung trong đầu hắn.
Cái chân lại đau nhói. Mùi nước đái bò xộc lên mũi. Chết thật. Ngón chân bị thương mà giẫm phải nước đái bò là độc lắm. Không chữa kịp thì đến cụt chân chứ chả chơi. Phải băng rửa vết thương… Hắn lại quay vào nhà. Vợ hắn đang ôm lấy thằng bé. Nó vẫn còn khóc.Vợ hắn cũng khóc. Người mẹ kéo quần con xuống. Những lằn roi ngang dọc trên mông, trên đùi thằng bé đang rớm máu. Người đàn bà gào lên:
- Sao mà ác thế! Cha tổ bố nhà chúng nó. Lẫn lộn lung tung. Lộn ổ lộn chuồng, bảo cháu là ông, ông là cháu. Để con tôi bị đánh oan. Ối giời cao đất dày ơi! Ối Cụ Lí ơi ời…! Cụ Lý ơi là Cụ Lý…! Đọc thêm!

HỒN CỦA ĐẤT



TRUYỆN NGẮN

Y sững sờ không nhận thấy những nét quen thuộc của ngôi trường mình đã từng gắn bó ngày xưa. Hàng bàng gù trước các phòng học đã cùng y qua hơn hai chục năm chịu đựng những bầm giập của cuộc sống nghèo nàn và xô bồ, của những lễ hội khoa trương theo yêu cầu của các cấp lãnh đạo giờ cũng không còn. Thay vào đó là những cỏ. Cỏ đến rợn chân người. Và lạnh. Cái lạnh đã thay thế cho sự ấm áp của ngày xưa. Sao vậy nhỉ? Rồi sân trường mọc lên những ụ tròn sắp xếp thẳng hàng cầu kỳ. Trông giống cái gì nhỉ? Sao y không thể nghĩ ra. Giống cái gì nhỉ? Những ụ đất tròn xếp đặt thẳng hàng ám ảnh. Lạ thế. Là cái gì, y vẫn không thể gọi tên được…
Văn phòng trống trơn. Trong ánh sáng nhợt nhạt, những đồ vật tại đây cũng u ám và lạnh lẽo. Cờ quạt, khẩu hiệu hình như đã đổi màu. Mảng tường tróc lở lộ ra màu đỏ bợt của những viên gạch non đang vữa bở, vãi vương thứ bột màu đỏ nhợt lẫn với bụi vôi cùng với nước mưa do mái dột tạo thành một hỗn hợp trông như máu mủ của một cái nhọt bọc lâu ngày vừa vỡ ra, rớt rát từ trên những mảng tróc lở nhểu xuống chân tường. Bàn ghế mục nát bốc mùi ẩm ướt và hôi sì. Một cánh của cái quạt trần han gỉ gẫy gập, những cánh còn lại rũ xuống trông tựa cánh tay của một thây ma dựng đứng. Không thể chịu nổi cảnh điêu tàn đến thảm hại trong cái văn phòng u ám, y bước ra hành lang.
Phòng đựng đồ thí nghiệm mở cửa. Sao lại vậy nhỉ? Trường không có người mà phòng này vẫn mở. Không sợ mất trộm ư. Chả nhẽ giữa cái vùng quê chưa thoát nghèo mà nơi này lại an toàn đến vậy. Y nhìn vào, rùng mình, lạnh toát người: trong ánh sáng nhờ nhờ như sương, những bộ xương người xam xám khẳng khiu với những cái đầu lâu thô lố hốc mắt hình như đang chăm chú nhìn y- một kẻ vô tình xâm phạm không gian của chúng. Mà sao nhiều bộ xương đến thế? Chả lẽ nhà trường này được trên ưu ái cấp nhiều dụng cụ thí nghiệm bộ môn giải phẫu sinh lý người.
Các phòng khác đóng cửa im ỉm, mạng nhện và bụi chăng kín các khuôn cửa. Những cái dây leo với những chùm lá thưa bợt bạt màu xám bò vào thành cửa sổ rồi mất hút sau khung cửa tối om trông như những con rắn đang trườn vào hang. Lặng im. Không có cả tiếng côn trùng và không có cả tiếng gió. Hoang vắng bao trùm tất cả.
Phía phòng bảo vệ có ánh sáng. Thứ ánh sáng lạnh và xanh. Chắc là tiết kiệm điện, người ta sử dụng đèn com pắc. Vậy ra ít nhất ở đây cũng có người. Phải rồi, ngày hè giáo viên nghỉ cả. Chỉ còn người bảo vệ trông coi khu trường. Y đi theo dãy hành lang ẩm ướt về phía đó. Cát sỏi và lá mục lạo xạo dưới chân. Không biết hiện nay ai đang bảo vệ trường. Liệu có phải người quen. Nếu gặp được người quen để tâm sự thì tốt. Chẳng gì thì ngôi trường cũng đã gắn bó với y trên hai chục năm trời. Ngày y phải chuyển trường ra đi thì ngôi trường còn đầy sức sống, cây lá xanh tươi, quang cảnh nhộn nhịp. Chả lẽ chỉ mấy năm đã đổi thay đến hoang toàng lạnh lẽo như vậy sao. Chắc phải có nguyên nhân. Thôi, cứ đến phòng bảo vệ thì khắc biết.
Đến gần phòng bảo vệ, y hắng giọng đánh tiếng để mọi người khỏi bất ngờ. Không có tiếng trả lời. Y ngó vào. Trong ánh sáng xanh nhợt nhạt, một người đang đứng ở cửa thấy y liền thụt vào, bò vội lên cái giường cá nhân cũ kéo chăn đắp tận cằm. Người quen! Là lão Kình trọc bảo vệ ngày xưa.Với chức danh bảo vệ nhưng lão mắc tật nghiện rượu nặng nên chỉ coi được cái nóc trường. Lão nhặt nhạnh, bòn góp từ mọi ngõ ngách xó xỉnh để đem đi bán những gì có thể bán được. Còn những thứ không bán được thì lão làm ngơ cho bọn mất dạy ngoài trường lấy đi. Và rồi lão được bọn chúng thù lao cho sự làm ngơ ấy mỗi lần vài ba nghìn để mua nửa lít rượu nấu bằng gạo tẻ sặc mùi cồn, đủ thoả mãn cơn nghiện trong ngày. Không thể chịu nổi cái kiểu coi trường như thế, Uỷ ban xã cho lão nghỉ việc. Nhưng lão nghỉ rồi thì tình cảnh của lão càng đáng thương hơn. Lúc còn coi trường thì mỗi vụ lão được xã trả công vài tạ thóc đưa về nộp cho vợ. Nhưng lão chả bao giờ được một mảy hạt gạo tấm từ những tạ thóc ấy. Để có thể sống, ngoài cái việc giúp đỡ những kẻ bất hảo như đã kể trên thì lão còn dựa vào cái bơm với bộ đồ vá săm lốp xe đạp hành nghề ngay tại cổng trường. Lão phục vụ khách vá xe rất tận tình bằng cách biểu diễn trò ảo thuật biến một thành hai trước mặt khách: đầu tiên lão bơm cái săm cho căng lên; thao tác thứ nhất là đưa cái săm lên ngang tai, sau một hồi nghe ngóng lão khẳng định được chỗ thủng (thực ra là chỗ lành) và cọ cọ, dán dán. “Xong! Lão bảo với khách như vậy- Nhưng để đảm bảo, cần phải kiểm tra lại, trên hình quan điểm vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi, không còn mi-li áy náy.” Lão nhúng cái săm vào chậu nước. Chỗ vừa vá đảm bảo rồi nhá (vì chỗ ấy chưa hề bị thủng); còn chỗ thủng thật lúc đó mới sùi bong bóng. Thao tác tiếp theo mới vá thật vào chỗ thủng. Bằng cái cách bóp cổ khách như vậy, ngày nào nhiều lão cũng chỉ kiếm được dăm ba nghìn. Thôi thì đói no cũng qua ngày. Khi không còn cái chức bảo vệ nhà trường, nguồn thu nhập vài tạ thóc không có nữa thì vợ lão coi lão không còn là con người, con lão coi lão như người dưng. Lão vất vưởng chả ra sống chả ra chết… Vậy mà bây giờ lão lại được người ta đưa trở lại cái vị trí ấy. Chả trách nhà trường điêu tàn hoang vắng đến vậy.
Y cất tiếng chào. Lão già không trả lời. Lão nhìn y với cặp mắt thờ ơ, vẻ mặt lạnh lùng như không quen biết. Mi mắt sụp xuống, khuôn mặt đờ đẫn có lẽ do uống rượu nhiều đến nỗi không còn nhận ra người quen. Rồi lão lại vùi đầu vào trong chăn. Cái chăn đụp màu nâu, loang lổ những miếng vá dúm dó. Và lạ lùng hơn nó rộng quá khổ, gấp ba bốn lần cái chăn bình thường nên trùm cả xuống đất, che gần kín nền nhà. Ở dưới chăn trên nền đất có cái gì động đậy, chắc là con chó hay con mèo. Nhưng lão ta có nuôi được con vật nào đâu. Ngày xưa, thỉnh thoảng cũng thấy lão nuôi con mèo hoặc con chó con… lúc bắt đầu nuôi thì lão âu yếm lắm, chăm chút lắm; nhưng do sự bức bách bởi tình cảnh thiếu thức nhắm đã khiến lão phải quyết định hoá kiếp cho chúng chỉ chưa đầy tuần sau đó. Sự âu yếm chăm chút chỉ là nhất thời, thay vào đó là sự tàn bạo khủng khiếp của thời Trung cổ: bằng một nhát đập chí tử, con vật yêu quý đã nằm thẳng cẳng chết đứ đừ. Và sau đó bằng rơm khô, lá mục lão nổi lửa thui cho chúng đến vàng ươm và dùng dao cùn chặt côm cốp trên cái chân ghế học sinh. Cái thực thể non bấy được lão yêu chiều hàng ngày đã được sả ra thành một mớ hỗn độn xương thịt bầy nhầy dưới lưỡi dao rựa cùn. Lão bảo làm như vậy là nhân đạo, là thể hiện sự yêu quý đối với chúng, là giải thoát cho chúng khỏi kiếp chó mèo hạ đẳng… Rốt cuộc bạn bè với lão chỉ còn lũ chuột. Lão cũng “yêu quý” chúng, cũng rất muốn thể hiện sự “yêu quý” như đã từng làm đối với những con chó con mèo con đáng thương kia. Nhưng lũ này rất tinh quái và nhanh nhẹn, có lẽ chúng cao quý hơn lũ chó mèo nên không cần chuyển kiếp; lão đành chào thua bởi mắt kém và tuổi tác làm cho lão không thể còn nhanh nhẹn. Mặc dù có thiếu nhắm, thèm thịt lắm thì lão cũng đành chịu nhìn những con mồi chạy nhởn nhơ ngoài vòng “thương yêu” như trêu tức. Và để thay thế cho chúng là những cái ấm nhôm, xô, chậu… đang lành lặn hoá thành bẹp dúm bẹp dó, sau đó báo cáo hỏng đề nghị thanh lý và được lão đem bán cho đồng nát để mua tý da lợn đầy lông lá, vài thanh đậu phụ ế chua loét, mấy con cá ươn khẳn… rồi xào xào nấu nấu khói um cả góc trường. Những lúc ấy nguời ta thấy lão vừa đưa mu bàn tay dụi mắt vừa sụt sịt mũi, toác miệng cười, ra chiều mãn nguyện.
Lần này thì dưới cái chăn bẩn thỉu trên mặt đất không phải là con chó hoặc con mèo; mà nhô ra hai cái đầu trẻ con trọc lốc và vàng vọt. Cũng mặt mũi lạnh tanh, cũng những cặp mắt vô hồn. Chả nhẽ lão này lại nuôi trẻ con. Rồi hai cái đầu trẻ con lại thụt vào trong chăn. Rồi động đậy. Và lại nhô ra ba cái đầu trẻ con khác ở trên giường. Lại thụt vào. Lại động đậy trong chăn và lại thò ra cái mặt lão Kình, nhưng lần này không ở trên giường mà là ở dưới đất. Cứ như vậy, lúc thì ba cái đầu trẻ con, lúc thì ba bốn cái đầu vừa trẻ con vừa người lớn, lúc trên giường, lúc dưới đất, thò ra thụt vào trong tấm chăn đụp loang lổ... Lão này làm cái trò khỉ gì thế này. Gặp người quen thì dửng dưng, lại còn bày trò ú tim với mình. Chả hiểu ra sao cả.
Y tức mình, phăm phăm bước vào, đưa tay hất mạnh cái chăn, y bỗng rùng mình bởi nó nhũn nhão như vừa ngâm nước và bở bùng bục. Cái chăn bay vào góc nhà: trên giường, dưới đất chẳng có ai. Những đầu trọc, những hình hài người ngợm biến mất hút như chưa hề xuất hiện; cái chăn hoá thành đống giẻ tả tơi, rách nát như đống rêu vừa được vớt lên, ri rỉ chảy nước loang lổ trên nền nhà đầy những vệt đất nham nhở như mối đùn…
Ma! Chả nhẽ là ma. Lạnh gai cả người. Lông tóc trên người dựng đứng, chân tay bải hoải. Y cố chạy ra khỏi cái phòng bảo vệ ma quái ấy. Y chạy mà không biết sẽ chạy về đâu. Đâu cũng được, miễn là thoát khỏi cái chỗ ghê rợn ấy. Bỗng như người bị rơi từ trên không xuống mặt đất. Y nhắm mắt: chắc là chết. Mở mắt ra thấy mình trong lòng một cái hố. Đất cát rơi lả tả xuống đầu xuống cổ, chui qua cả cổ áo xuống lưng. Ngứa điên cả người. Muốn gãi quá nhưng không thể được. Hai tay như bị trói không thể nào vòng về phía sau. Trên cái khoảng sáng nhờ nhờ ở miệng hố là ba bốn khuôn mặt. Quen lắm! Ai thế nhỉ? Lại không nhớ ra. Mấy cánh tay chìa xuống. Y cố nắm lấy một trong những cánh tay ấy nhưng cũng không thể được, tay y cứng đờ. Những cánh tay trên miệng hố túm tóc y kéo lên. Bằng cách ấy y được lôi lên mặt đất. Đầu đau ê ẩm. Y nhìn quanh: mặt đất trống trơn. Chả có ai. Rõ ràng vừa có mấy người kéo mình lên. Họ trốn vào chỗ nào nhỉ? Phải hét to lên xem họ ở đâu? “A…a… Có ai không?”… Một cái đạp đau điếng. Y vùng dậy…
“Làm cái gì mà hét ầm lên. Không cho ai ngủ nghê gì à?”. Thì ra mình nằm mơ! Bà vợ yêu quý vừa dùng cẳng chân giải thoát cho y khỏi cái giấc mơ kì dị quái đản. Không biết tiếp theo sự việc sẽ như thế nào?
Không thể ngủ tiếp được nữa, y trằn trọc mở mắt nhìn lên trần nhà. Khoảng trắng nhờ nhờ phản chiếu ánh sáng của đèn ngủ làm trong đầu y lại hiện lên cái khoảng sáng trên miệng hố trong giấc mơ. Và y nhớ ra: Cái phòng bảo vệ xuất hiện trong giấc mơ vốn là phòng ở dành cho giáo viên của những năm tám mươi thuộc thế kỷ trước. Trước khi y về công tác tại nhà trường thì ở đây đã có những sự việc hãi hùng mà bây giờ dư âm của nó vẫn còn qua các câu chuyện kể. Chỉ trong có hai năm mà ở đây chết ba cô giáo và hai đứa trẻ sơ sinh. Họ đều đã từng ở trong phòng này. Họ chết do thai sản hoặc do bệnh tật. Sự đói khát và vất vả thiếu thốn làm cho hai người không thể đủ sức vượt cạn trong những lần sinh nở. Người còn lại thì bệnh tật đã tích tụ trong cơ thể lâu ngày, nó gặm nhấm dần cái sự sống vốn đã mong manh. Người ta trò chuyện truy tìm nguyên nhân của những mảnh đời bất hạnh. Bên cạnh những nguyên nhân trực tiếp như đã nói thì người ta còn phát hiện ra một nguyên nhân khác: do cái phòng ở. Nguyên cái phòng ấy trước là của một y tá, trong phòng này người thầy thuốc của nhân dân lại rất nhiệt tình hăng hái làm thêm để có thu nhập ngoài giờ bằng cái việc huỷ diệt những mầm sống, những sinh linh nhỏ bé hậu quả không mong đợi của những cuộc tình vụng trộm. Theo như tin đồn và căn cứ vào các biểu hiện đầu mày cuối mắt trong đám nam thanh nữ tú, cán bộ, dân quân, các mối quan hệ kết nghĩa anh nuôi em nuôi… thì số lượng những ca như vậy có thể đến hàng trăm. Oan hồn quả báo.Vậy là không ai có đủ can đảm đến ở trong cái phòng y tá sát sinh nọ. Về sau nó được dành làm phòng bảo vệ. Lão Kình là người bảo vệ tá túc đầu tiên trong cái phòng này. Rồi lão nghỉ việc. Sau đó là lão chết bất đắc kỳ tử do một tai nạn giao thông. Xe máy va vào lão khi lão đang vừa chuyệnh choạng đi bộ theo kiểu vặn thừng của hoa hậu vừa đánh võng chữ chi trên đường. Chả biết có phải vì say rượu...
Sự hiện diện của lão trong giấc mơ cùng với trò ú tim mà lão làm muốn thông báo một điều gì đó chăng? Lão không nói gì, nhưng y biết trong giấc mơ thì những người đã chết không bao giờ nói. Người ta gọi đó là vong. Có lẽ đấy là phần còn sót lại của mỗi con người trên thế gian. Nó là cái phần không thuộc về vật chất, không có hoạt động cơ học nên không thể phát ra âm thanh. Nó là phần hồn, là ảo ảnh của người chết và có khả năng dẫn dắt người sống vào cõi hư ảo trong những giấc mơ kỳ dị. Nhưng y chắc có một thông điệp mà ở cái chốn hư vô ấy muốn thông báo cho mình. Giải mã được những thông điệp ấy quả là rất khó khăn. Chỉ có thể chiêm nghiệm điều đó trong sự việc tiếp theo của cuộc sống thực tại. Những hình ảnh của các sự việc xảy ra trong mơ sẽ tương ứng với những sự việc cụ thể sẽ diễn ra trong cuộc sống. Có lẽ nó không hứa hẹn những điều tốt đẹp, nhưng hình như nó chỉ ra rằng y sẽ vượt qua được những rắc rối đó bởi y bây giờ là người ngoài cuộc. Còn may mắn chán: Số phận vẫn mỉm cười với mình mặc dù nó không ngừng đưa ra các thử thách.
Đến bây giờ thì y mới vỡ ra: Những ụ đất tròn ở sân trường phải chăng là những nấm mộ. Những nấm mộ chỉ có trong những giấc mơ còn trên thực tế không thể có. Trong trần gian, nấm mộ là chứng tích duy nhất còn sót lại và cũng là vật sở hữu cuối cùng của một kiếp người. Những sinh linh bé nhỏ chưa từng được hít thở khí trời, những thân phận bé nhỏ sống mà chẳng được ai quan tâm sẻ chia, vậy thì làm sao có thể được người đời ghi nhớ bằng một nấm đất. Còn bởi vì những vong ấy chỉ thoáng qua trong cuộc đời rồi biến mất khỏi trí nhớ của đồng loại còn sống. Thỉnh thoảng lãng đãng hiện ra trong những cơn mơ hoặc vào những lúc đầu óc người ta mụ mị siêu thoát để cảnh báo sự tồn tại của họ.
*
* *
Hôm sau y dạy sớm mà trong đầu vẫn lảng vảng những hình ảnh trong giấc mơ đêm qua. Tự nhiên y thấy chán nản, không biết nên làm gì. Vậy là y thắng bộ vào và lấy xe đi. Cũng không hẳn là định đi đâu. Nhưng y chợt nảy ra ý định đến trường cũ để xem như thế nào, có gì giống như trong mơ không. Đến gần trường thì y lại ngại. Mình đã đi khỏi nơi này mấy năm rồi. Chuyện mơ và thực liệu có gì liên quan mà phải đến. Nhưng chợt nghĩ ra đang kì nghỉ hè nên chắc là ở đấy cũng chả có người, vả lại mình về thăm trường cũ cũng là tốt chứ có sao. Cái ý nghĩ ấy làm y bớt nghi ngại phần nào, thậm chí còn thấy vui vui.
Trường cũ vắng hoe. Cổng đóng kín nên y không vào được nên đành đứng ở ngoài nhìn vào. Y giật mình khi thấy mấy cây bàng gù không còn nữa. Đúng như trong mơ. Những cây bàng đã được trồng gần ba chục năm trời từ khi ngôi trường được dựng lên. Cứ mỗi lần lễ hội hay biểu diễn văn nghệ tại sân trường, những thân cây bàng non phải cõng hàng trăm đứa trẻ chia nhau leo lên từng cây, mỗi cây vài chục đứa, chúng chọn những cành gần sân khấu nhất để được xem cho rõ. Những thân cây non cứ mỗi năm lại gù đi một ít cho đến khi thành cổ thụ. Cấp trên bảo là hàng cây xấu quá, huỷ nó đi. Nhưng y kiên quyết giữ lại vì nghĩ rằng dù có xấu thì nó là một phần của mảnh đất này, gắn bó thuỷ chung, tận tuỵ với mái trường này. Lúc còn non, nó gù xuống vì cõng lũ trẻ; bây gìơ dù có gù, có xấu thì nó vẫn cho lũ trẻ bóng mát trong cái sân trường đầy nắng lửa. Thế mà người ta đã huỷ nó rồi! Thay vào đấy là những hàng cau vua giống nhập ngoại, mốt thời thượng. Những cây cau đang héo quắt cháy sém, búp và tàu lá rũ rượi trong nắng hè chang chang trông như những thây ma bị dựng đứng, đầu ngoẹo sang một bên, tay thõng thượt rủ xuống. Có sự thay đổi thật. Hàng cây tùng tháp khoẻ khoắn nghiêm trang như hàng quân danh dự ngày xưa được thay bằng những cây ngâu tỉa tán tròn như thúng úp nhưng chỉ có cành cuộng khẳng khiu mốc thếch điểm lơ thơ lá úa vàng. Và cũng đúng như trong mơ: rất nhiều cỏ, nhưng là thứ cỏ Nhật Bản hiện đang được ưa chuộng trồng trong các công viên. Cỏ ở đây được trồng theo ô ngăn cách bởi các lối đi bằng bê tông. Cỏ rất xanh và dầy. Chúng chen chúc nhau trong lãnh địa dành riêng cho mình. Chợt y rợn người: trong những ô cỏ loang lổ bóng nắng là mấp mô những ụ tròn nho nhỏ cái xanh sẫm, cái vàng vàng… như những cái đầu trọc đang lục đục cựa quậy trong tấm chăn rộng đầy mảnh vá. Phải chăng những gì trong mơ đang là thực. Sự thực đang hiển hiện trong mắt, y không thể không tin. Y nhắm mắt và chợt tưởng tượng ở mép cái tấm chăn rộng kia sắp sửa thò ra thụt vào những cái đầu trọc, những cặp mắt lạnh tanh, vô hồn của lão Kình và những sinh linh chết yểu…
Khác với trong mơ, y không chạy. Chả việc gì mà phải chạy trong một buổi sáng đầy nắng và gió như thế này. Y thở dài nghĩ về cái ngày đầu khi về trường đã cách đây hơn hai chục năm. Lúc đó dư luận đang xôn xao về những cái chết của ba cô giáo. Người ta sợ đến nỗi giáo viên trong trường nằng nặc xin chuyển đi trường khác, người được phân công về thì kiên quyết chống lại quyết định. Y được phân công về phụ trách trường. Buộc phải về, vì đó là quê hương của mình. Nhưng cũng từ đó thì không có hiện tượng tương tự nào xảy ra nữa. Người ta bảo do y cứng tướng hợp với cái nơi đất nghịch. Y không nghĩ như vậy nhưng y cảm thấy số mệnh đã trao cho mình cái việc nên làm. Tiếp thu công việc được non tuần, y cho học sinh lao động tu sửa lại cảnh quan đang rệu rã của nhà trường. Trong buổi lao động, lũ trẻ đào được một vật lạ. Chúng không biết đó là cái gì và đưa cho y. Cái vật ấy giống như chữ T in hoa, làm bằng sắt to bằng ngón tay út, dài hơn hai mươi phân, phía cuối là một vòng tròn xỏ lọt bàn tay. Nhiều lớp gỉ sét bám dày, lớp bên ngoài đang mủn ra chứng tỏ nó bị vùi dưới đất khá lâu. Một chiếc chìa khoá! Y cho rằng đây là chìa khoá của một ngôi đền hoặc miếu khá lớn. Nhưng chỗ này trước đây là cái trạm xá. Sau hỏi ra mới biết cái trạm xá ấy lại ngự trên mảnh đất của một ngôi đền cổ lớn thờ một vị tướng có công với nước. Ngôi đền thiêng có tiếng từ ngày xưa nhưng bị phá đi hồi cải cách vì nó là “tàn dư của phong kiến bóc lột lạc hậu”. Người ta lấy gỗ đem đấu giá rẻ chia nhau, gạch để lát đường xây dựng nông thôn mới và khu đất được dành để làm trạm xá. Trong chiến tranh phá hoại, căn nhà chính của trạm vốn xây trên nền móng của ngôi đền bị một quả bom Mỹ giáng xuống tan tành. Mấy người vừa y tá vừa bệnh nhân cũng tan biến vào đất cát, đào bới mấy ngày trời cũng chỉ nhặt được vài mảnh xương thịt nát vụn, chả biết ai vào với ai. Từ đấy không ai dám bén mảng đến đó nữa, lâu ngày thành đất hoang, cỏ dại mọc um tùm. Mãi đến thời hoà bình thống nhất, người ta nghĩ ra sáng kiến xây trường học vào chỗ ấy vừa vì tương lai con em chúng ta, vừa không bỏ đất hoang. Tiện mọi bề. Nhiều nơi họ còn dám đặt trường học trên bãi tha ma cơ mà... Thì ra đất này đã từng là nơi linh thiêng. Y cẩn thận đặt cái chìa khoá vào chỗ trang trọng nhất trong phòng làm việc của mình. Hàng ngày, khi ngồi làm việc y lại gặp chiếc chìa khoá. Rồi thành thói quen, cứ bước vào phòng làm việc là y lại đưa mắt nhìn xem chiếc chìa khoá có còn ở chỗ cũ hay không. Có lúc y ngồi lặng đi hàng giờ nhìn nó, và nghĩ… Nó như nhắc nhở y về trách nhiệm với mảnh đất này.
Vậy mà y đã làm việc ở đây hơn hai chục năm ròng lập nên một kỷ lục mà các vị tiền nhiệm không bao giờ đạt được. Người nào ở lâu nhất cũng chỉ được ba năm là phải bán sới đi chỗ khác vì những chuyện hết sức không đâu. Và y hết sức cẩn trọng trong mọi việc. Dần dần y có được cảm giác an toàn cho mình. Từ trong sâu thẳm y tin rằng cái chìa khoá mà y đang giữ chính là sự gửi gắm của ngày xưa. Chính cái điều ấy giúp y giữ được mình và điều hành công việc được giao một cách suôn sẻ. Khi buộc phải ra đi, y nghĩ ngợi hay là mình đã làm điều gì xúc phạm. Không, kiểm điểm lại chưa bao giờ y dám phụ mảnh đất này ngay cả trong ý nghĩ. Phải chăng còn có thế lực lớn hơn?
Ngày ra đi, y đã định đem chôn chiếc chìa khoá. Đất này đã trao nó cho mình, bây giờ xin được trả lại cho đất. Nhưng y nghĩ lại. Y trân trọng trao cho người đến thế chỗ. Thì cũng coi như việc đời làm cái thủ tục bàn giao hành chính thông thường… Không biết bây giờ nó có còn không? Hay là người ta đã vứt đi rồi vì nghĩ đó là trò mê tín nhảm nhí vớ vẩn.
“Sao! Về thăm trường cũ mà phải đứng ở ngoài à?” Tiếng nói kèm một cái đập vào vai làm y giật nảy người. Quay lại thì ra mấy ông bạn trong Hội Cựu chiến binh cùng với y, nhà ở xóm này. Y ngượng nghịu: “ Đi qua thấy cảnh cũ đã khác xưa, mình đứng xem một tý”. Mấy anh em rủ nhau vào một cái quán nước. Y kể cái giấc mơ kỳ lạ của mình. Một ông trầm ngâm:
- Các cụ bảo Hiền như Bụt, Lành như đất; Ông Thích ca mấy chục năm tu luyện dưới gốc bồ đề để được cái tiếng Hiền. Còn đất, đất tu luyện hàng tỷ năm, giơ mặt chịu bao nhiêu là nắng mưa, gió bão; trải qua bao nhiêu cuộc thăng trầm biến cải mới được cái tiếng Lành. Nhưng đất cũng có hồn đấy các ông ạ…
- Làm sao ông biết được?
- Gì mà không biết. Này nhá: Hồn của mỗi mảnh đất tích tụ linh hồn của cỏ cây và con người từng sống cùng với nó. Đất lành đấy nhưng chỉ lành với người tử tế. Còn đất cũng biết nổi giận, mà lúc nổi giận thì khủng khiếp lắm chứ chẳng phải chuyện đùa. Vì vậy mà vua chúa bán đất, nhượng đất là đến hồi tàn mạt; nhà nào bán đất đi thì lụn bại rất mau. Không tin các ông cứ nghiệm mà xem. Ai sống trên đất mà không biết trân trọng đất thì bị trừng phạt đến nơi đến chốn. Kẻ nào lợi dụng đất cầu lợi cho riêng mình, hại đến người khác cũng phải gánh quả báo đến đời con đời cháu…
- Phải đấy! Vậy mới có câu Ác giả ác báo, thiện giả thiện lai. Cái sự lành dữ như vậy chính là sự thiêng của đất. Đất này thiêng lắm đấy. Người nào biết tôn trọng và gắn bó với đất này thì mới có diễm phúc biết được tâm sự của nó. Chả phải ai cũng được như vậy đâu.
Y nhìn mấy ông bạn mà ngớ người. Không phải vì cái mớ lí luận có vẻ khúc triết các ông vừa nói. Mà là vì bây giờ y chợt nhận ra: họ có khuôn mặt của những người đã đưa tay kéo y lên khỏi cái hố trong giấc mơ kỳ dị đêm qua. Đọc thêm!

LÃO PHẬT GIA VÀ CÁI KÍNH


TRUYỆN NGẮN


Có một cây cầu được mọi người đặt tên là cầu Đắc Lý. Cầu được bắc lên nhưng chả mấy ai cần đi. Vì nó được bắc qua đoạn sông ở mãi cuối thị trấn huyện. Nó cắt ngang đường quốc lộ và nối liền…hai bãi tha ma. Cầu được bắc lên vào cái ngày mà thị trấn chưa hình thành. Và nghe đâu tác giả của nó là một vị phó chủ tịch huyện. Vị này có một cô bồ ở rìa xóm nhỏ mãi phía tít đằng tây con sông, cách bãi tha ma hàng cây số đường bờ ruộng… Đi lại với nhau một hồi thì ông nhận ra cái sự vào xóm thường xuyên dễ thành cái cớ để mọi người đàm tiếu ảnh hưởng tới uy tín lãnh đạo của mình. Để nối những bờ vui ông cho xây cầu…Cầu xây xong được vài năm thì ông mất chức. Và cuộc tình cũng tan tác bèo dạt mây trôi. Có lẽ quá đau buồn vì mối tình dang dở bởi nhịp cầu duyên mà ba năm sau thì ông quy tiên.
May thay hai bên cầu, ngoài hai bãi tha ma còn toàn là ruộng lúa nên các nhà quy hoạch tha hồ thi thố tài năng. Phía tây cầu người ta xây một trạm biến thế điện. Phía đông cầu người ta xây một trường học. Do không có dân cư nên lúc đầu trường không có học sinh. Người ta bèn đặt cho nó tên là “Trường Chất lượng cao”. Với cái tên này thì dĩ nhiên các trường đã có từ trước phải là trường chất lượng thấp. Vào đúng lúc “ Giáo dục- Đào tạo là quốc sách hàng đầu” thì cái tên “Chất lượng cao” kích thích niềm hy vọng cho nhiều người về cái sự học hành thành đạt của con cái. Nước chảy chỗ trũng, còn sự học lại dồn từ chỗ thấp về chỗ cao. Người ta ùn ùn chen nhau xin cho con vào học. Nhà trường chỉ có mấy phòng học, nhưng số học sinh cần có chất lượng cao thì lại quá nhiều. Chính vì thế buộc phải xét tuyển nghiêm ngặt như xét tuyển vào đại học. Ba mươi chỉ chọn một. Sau một hồi xét tuyển hết sức cam go thì người ta thấy học sinh nhà trường toàn là con cháu các sếp và các nhà giàu.
Có trạm điện, có trường học Chất lượng cao, nghiễm nhiên nơi đây trở thành một trung tâm công nghiệp văn hoá. Để thêm phần có lý của cây cầu người ta cho dân làm nhà bám đường quốc lộ. Các nhà đều quay mặt về hướng tây. Do phải tiếp xúc với ánh nắng chói chang của buổi chiều chiếu thẳng vào trong nhà, nên người nào mắt cũng hấp ha hấp háy như bị mắt hột chuyển sang thời kỳ lông quặm …
Sở dĩ người kể chuyện phải nhắc đến địa danh cầu Đắc Lý vì ở cái xóm ven đường vừa nói trên có hai nhân vật chính là bà Phạm Thị Thu Nhãn và cô Kim Bổng.
Bà Thu Nhãn là giáo viên của cái Chất lượng cao đó. Sau khi đã tự khai rút số tuổi của mình đi hai tuổi thì còn ba năm nữa bà mới phải nghỉ hưu. Người khô đét, mắt kèm nhèm, nhưng trước mọi người để chứng tỏ mình còn trẻ nên bà kiên quyết … không dùng kính lão. Do không chịu đeo kính nên bà phải đẩy xa sách để nhìn cho rõ. Cái bàn thì cao, người bà lại thấp, nên không đủ khoảng cách cần thiết cho con mắt; vì vậy khi trên lớp hay trong hội nghị bà phải đứng viết. Lúc đó, bà duỗi thẳng tay cầm bút, rướn cổ về phía sau, đầu ngoẹo sang bên phải, thành thử trông như người ngảnh cổ…Là giáo viên dạy văn kiêm Chủ tịch Công đoàn nhà trường, nên bà ăn nói văn hoa lắm: Nhân sự thì bà bảo là “dân sự”. Khẳng định thì bà bảo là “phủ định”…Người nghe chả biết lối nào mà lần. Người không hiểu tưởng bà thông minh, có khiếu hài hước… Cấp trên bảo bà: Thôi già rồi. Nghỉ hưu đi. Bà bảo: “Đứa nào bảo tớ già thì đích thị cái mắt của nó đã bị mù mở. Đứa ấy mới đáng phải nghỉ hưu”… Bà còn trẻ, còn khoẻ chán. Và bà năng động nữa!
Còn Kim Bổng là giáo viên dạy cùng trường lại ở sát nách nhà Thu Nhãn. Mới ra trường được hơn chục năm. Chục năm ấy là đủ thâm niên để cho những khát khao chắp cánh. Cô còn trẻ, chuyên môn cũng cỡ làng nhàng, nhưng mà đôi mắt lúng liếng lắm. Và hơn nữa cô lại còn bắt nạt được chồng. Chồng cô vốn là một tay chơi hàng anh chị. Cái bản lĩnh của Kim Bổng bất ngờ được Thu Nhãn phát hiện. Vào một đêm khi mọi người đã ngủ ngon giấc, bà bỗng choàng dậy vì nghe thấy tiếng rít nghèn nghẹn của Kim Bổng: “Đồ khốn nạn! Vừa đi với con đĩ nào về…có khác gì…rọc khoai…thối… không…C..ú..t…”. Rồi nghe đánh sầm. Bà nhìn qua khe cửa, thấy dưới ánh trăng nhợt nhạt, anh chồng của cô ta đang quần đùi áo lót, ôm quần áo thất thểu chạy bộ qua cầu Đắc Lý sang cơ quan để lánh nạn. Dù là dân anh chị, nhưng quá khứ, hiện tại và hứa hẹn cả tương lai của tay chơi này đầy tội nên anh ta phải ngậm mồm im thin thít trước vợ. “ Đúng là một người có bản lĩnh..”- Bà Thu Nhãn khẳng định về cô như vậy. Và tuyệt vời hơn nữa, Kim Bổng là em kết nghĩa của lãnh đạo. Chả là chồng của cô là em kết nghĩa của một tay chơi khác, tay này lại kết nghĩa anh em với một lãnh đạo trên tỉnh. Lãnh đạo trên tỉnh lại là anh kết nghĩa của lãnh đạo trên huyện. Mối quan hệ kết nghĩa khép kín tứ giác lồi này càng trở thành khăng khít mỗi khi cô em chớp chớp cặp mi, mắt ươn ướt không biết vì buồn phiền do anh chồng lắm tội hay vì chói nắng do nhà hướng tây, làm cho lãnh đạo cảm thấy nao lòng…

Dạo này, Thu Nhãn thấy bứt rứt trong người. Đã gần một năm nay nhà trường không có hiệu phó. Hiệu trưởng cũ lại vừa phải chuyển đi trường khác. Lần này có hiệu trưởng mới về thì cấp trên mới cho bầu hiệu phó. Cứ đồn mãi, sao không làm ngay đi. Để thế này thì loạn mất. Chẳng ai bảo được ai. Ai cũng thấy mình có thể làm được hiệu phó…Để được làm thì phải có người bầu…Để có người bầu thì phải có đồng minh… Không khéo rồi thì các phe phái nổi lên như thời Chiến quốc bên Tàu chứ chả chơi.
Phàm là người có chí tiến thủ thì khi mới bắt đầu là anh binh nhì đã phải mơ đến lúc thành nguyên soái. Là giáo viên phấn đấu lên hiệu phó hiệu trưởng cũng là cái sự thường tình. Dù rằng cái chức vụ hiệu phó cũng chỉ là cái anh đầu binh cuối cán trong một nhà trường. Cái sự bổng lộc thì cũng như mọi người. Có gì đâu mà hám! Nhưng đấu gắng đua tranh cũng là do từ cái sợ mà ra. Nói ra thì mọi người cho là vô lý: làm giáo viên nhưng lại sợ dạy học, sợ hơn cả bố mẹ…chết!? Bằng chứng là mỗi lần phân công chuyên môn thì các cô giáo…khóc. Bảo hội giảng: cũng khóc. Thậm chí bảo làm chủ nhiệm lớp cũng rơm rớm nước mắt… Nên bà phải lấy chức danh Chủ tịch Công đoàn ra mà an ủi.
Làm giáo viên mà lại sợ dạy học, làm thày mà lại sợ học sinh? Phải chăng vì cái bọn học trò cấp hai đang ở tuổi bắt mũi chưa sạch nhưng lại cố bắt chúng phải làm cụ non nên chúng phá. Cái sự bắt chúng phải làm cụ non thì không phải tại người dạy mà là từ cái cấp nảo cấp nào cơ. Ai đời trẻ con vừa ở cấp một lên, chữ quốc ngữ đọc còn ngắc ngứ, ngoại ngữ Tiếng Anh thì đang vẽ chữ, còn đang thích truyện tranh …thì bắt nó phải học và phân tích thơ Đường dịch sang… lục bát(!) Để rồi nó chẳng thấy gì là hay thì chớ, có đứa còn hồn nhiên tuyên bố: “Thua ca dao! Ông Đỗ Phủ, ông Lý Bạch bên Tàu vẫn thua ông nông dân nhà ta.”(!) Thằng mười hai tuổi đọc Chinh Phụ Ngâm cứ như đọc sách ngoại ngữ. Nó hỏi bà Nhãn: “ Cô Thiếp là cô nào mà phải đi buôn chuối hả cô?”. Bà ngớ ra: “Tại sao em lại hỏi vậy?” Nó bảo trong sách viết “Thiếp thì về buôn cả chuối chăn”. Bà lấy sách ra, đầu ngửa đằng sau, ngoẹo hết cỡ sang phải mà vẫn chỉ thấy lờ mờ. Ác một nỗi chính bà cũng không thuộc Chinh Phụ Ngâm. Đành phải hoãn binh, bằng cách đánh trống lấp: “Hỏi vớ vẩn!”. Tối về đeo kính, mở sách xem. Thôi chết tôi rồi: “Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn”. Nó đọc chưa thạo nên không hiểu. Còn mình thì cũng chưa hiểu chỉ tại cái con mắt… Khổ thế đấy. Nhưng thầy vẫn cứ phải dạy, bởi chương trình là pháp luật. Làm trái luật thì chỉ có mà đi tù!
Đã vậy thì chớ lại còn lại còn nặng nề, lắm môn, lắm chủ đề. Cái thời bà đi học thì kiến thức chỉ “ Chuồn chuổn chuồn chuồn. Bay liệng trong vườn. Bay đông bay tây. Trông như tàu bay”… thế mà còn “đúp” đến gần nửa lớp. Giờ thì ngược lại. Nghe cấp trên bảo là phải cho kịp tiến bộ của khoa học thế giới thì chương trình phải nâng cao lên. Học trò cuối cấp hai bây giờ phải học cả những kiến thức của lớp cuối cấp ba ngày xưa. Và còn phải thực hiện nhiệm vụ quan trọng nhất là phổ cập được cấp hai. Mà không phổ cập cấp hai thì làm sao có thể phổ cập cấp ba sau vài năm nữa theo đề án của tỉnh.
Ừ thì nếu có vậy không thôi, thì cũng phải cố. Nhưng mà cái sự cố gắng ấy cũng chỉ là công toi bởi vì trên người ta lại hăng hái trong cái việc đổi mới sách giáo khoa. Cái sự đổi mới lại thường xuyên dăm bảy năm một lần. Giáo viên chạy bở hơi tai lo tiếp thu. Tiếp thu vừa xong, chưa kịp hoàn hồn thì lại…đổi mới. Người ta đổi mới bằng thay từ cho hoa mỹ hơn: Giáo án thì gọi là “thiết kế giảng dạy”, rồi “thao tác”…Toàn từ Hán. Giáo viên vừa dạy vừa tra từ điển. Mà lần nào đổi mới nghe cũng có lý cả. Chưa kể trong một quá trình đổi mới thì người ta còn điều chỉnh hàng năm. Cái có lý của ngày hôm qua lại là cái vô lý của ngày hôm nay và ngược lại. Giáo viên đánh đu với chương trình. Cứ xoay như chong chóng… Có giời cũng chả biết lối nào mà lần.
Giá không phải ăn, không phải nuôi con thì bỏ quách nghề. Nhưng người ta cần phải sống. Muốn tồn tại thì phải làm việc. Giáo viên phải dạy học! Đó là lẽ dĩ nhiên. Nhưng mà nhiều khi phải dạy cả những cái mà người dạy cũng không được học!? Ví dụ như cái môn nhạc và hoạ. Vì không có giáo viên chuyên, nhà trường buộc phải phân công dạy kiêm nhiệm. Cô Thư là giáo viên Anh văn phải kiêm nhiệm môn nhạc. Dạy bài hát mà cô làm như dạy từ mới trong tiếng Anh. Gặp bài “Lý Cây đa”, cô dạy hai chữ một: “Trèo lên…Hai ba…”. Trẻ hát: “Trèo lên”… “Hát lại lần nữa…Trèo lên…Hai ba!”. Bọn trẻ gào toáng lên: “Trèo lên…hai ba…trèo lên…” Hễ trông thấy cô là bọn trẻ lại gào: “Trèo lên”… Những lúc ấy cả trường được bữa cười no. Cô ngượng chỉ còn thiếu nước chui xuống đất. Thực ra, dạy ở trên lớp thì thế nào ai mà biết được, nhưng nhỡ mai ngày học sinh học lên nó biết thì nó chửi cho: Cô giáo không biết mà còn dạy liều! Lại thêm một nỗi sợ. Thôi thì tình nguyện làm anh lính nhát gan. Không dám đánh nhau thì tìm cách xin về phía sau làm nuôi quân, hậu cần. Cách tốt nhất đỡ phải dạy mà lại oai là…lên hiệu phó.
Bà mà còn trẻ thì cũng phải quyết giành cho mình một suất trong danh sách bầu. Nhưng chỉ còn có ba năm nữa bà phải về hưu. Đã thế bọn trẻ nó có để cho bà yên đâu. Hai cái tay tổ trưởng chuyên môn trong dự nguồn là Lân và Chử có năng lực, có chuyên môn đấy, tích cực đấy nhưng nó cứ hàng ngày chọc tức bà. Tay Lân tổ Tự nhiên thì bảo: “Cái sự viết đứng của bà là “Chuyện lạ Việt nam”. Vì người ta chỉ có đái đứng chứ chả ai lại viết đứng bao giờ”. Đúng là cái đồ thô tục! Mà sao nó cũng khéo moi móc! Chả là quê gốc của bà ở cái xóm tên là Di Tình nên thỉnh thoảng nó lại trêu bà bằng cách nghêu ngao hát điệu lới lơ: “ Em sinh …í…ì…sinh…ở xóm.. tình này ở xóm… xóm Di Tình..ơi.í..i..ì…nhà em cạnh cầu Đắc Lý..í..i.. Anh mình…mình biết chăng…i..ì..i...ới ị ì i”. Bà sinh ra ở cái địa danh Di Tình thật, nhà ở cạnh cầu Đắc Lý thật nhưng rõ ràng bà có cả tình lẫn lý rồi còn gì. Đúng là đồ xỏ lá! Chưa hết. Do bà chịu khó tự tìm tòi cách giảng dạy, mà giờ hội giảng bốn nhăm phút bà phải giảng tới gần… tám mươi phút. Vừa ra khỏi lớp thì tay Chử tổ trưởng Xã hội làm ngay bài vè rồi đọc rầm lên: “Bà ơi giáo án cháy to. Xin bà phải hót sạch gio. Kẻo dính mắt trẻ, khổ cho muôn đời”. Hỏi như vậy thì có lộn ruột không? Bà phải cho biết tay. Cứ tưởng là nguồn thì bà nể chắc. Đợt này thì bà cắt cụt!
Sở dĩ bà dám nghĩ vậy, bởi vì hiệu trưởng mới vừa về, như vua trong thời kỳ ấu chúa. Cấp uỷ cũ tan tác hết, chỉ còn mình bà. Bà lại là Chủ tịch Công đoàn. Không dựa vào bà thì dựa vào ai? Hay thật! Nghiễm nhiên bà thành Lão Phật Gia nhiếp chính …
Cái khó cho bà là nếu cắt cụt nguồn thì phải dựng ai? Người được dựng lên phải biết nghe lời bà. Điểm mặt những người thường chơi thân với bà thì cũng đều ở hàng trưởng lão, quá tuổi đề bạt rồi. Bà nhẩm tên từng người rồi bỗng nhiên bà thốt lên: “Sao mà mình lú lẫn thế!”… Cái người mà bà phát hiện ra lại là người ngay sát nách, nhà chung tường với nhà bà: cô Kim Bổng.
“ Ối giời ơi!” Cô Kim Bổng rên lên khi nghe Thu Nhãn thẽ thọt đưa ra cái ý kiến định đưa cô vào bầu hiệu phó. “ Sao mà chị tốt thế! Em cũng đang định thưa với chị…” Tư tưởng lớn gặp nhau. Hai người hàng xóm chụm đầu suốt một buổi. “ Mọi việc chị đã tính, cô cứ làm theo là chắc thắng. Thế nhá!”.
*
* *
Hai chị em, hai mũi giáp công bắt đầu tiến hành cuộc cách mạng “dân sự” như đã bàn. Chỉ bằng một lần chớp chớp mi, ươn ướt mắt của Kim Bổng, ngay lập tức một văn bản ra đời…Mà theo văn bản này thì nguồn thứ nhất là tổ trưởng Lân bị cắt cụt ngủn. Vậy là đã loại được một đối thủ. Lão Phật Gia chỉ đạo tập trung lực lượng giải quyết gọn đối thủ còn lại là Chử. Kim Bổng tiếp tục dựa vào thế ông anh kết nghĩa khép kín, cô đến từng nhà, bảo từng người: “Anh ấy đã quyết định là tớ sẽ lên hiệu phó. Bầu chỉ là thủ tục. Cậu phải ủng hộ tớ. Nếu không thì cũng chẳng sao…Chỉ có điều đến lúc đó, chúng mình khó ăn khó nói với nhau…” Cánh non gan đâm hoảng: Cô ta đã bảo như vậy chắc là có cơ sở. Nếu mình không bầu, nhỡ cô ta vẫn trúng thật thì gay. Hiệu phó có quyền phân công chuyên môn. Nó ghép cho mấy tiết chéo ban và xếp cho dạy toàn tiết năm cả tuần thì chồng con ở nhà đến nhịn đói. Vả lại ai cũng nghĩ, một lá phiếu của mình thì thấm vào đâu so với cả tập thể. Thế là gật. Bằng cách doạ như vậy, Kim Bổng đã nhận được gần chục cái gật. Sau mỗi cái gật, cô thấy ruột gan nở thêm ra một khúc. Với những người cứng vía, khó doạ thì Kim Bổng lại có bài khác: “Tôi đã thoả thuận với Chử rồi! Trường Vân Tiến chuẩn bị có một hiệu phó sắp nghỉ. Hắn ta sẽ về đấy!” Những người này nửa tin nửa ngờ, có người gật, có người lắc. Số này không nhiều, cô chẳng lo lắm. Cô tin vào tài năng của Lão Phật Gia ở hướng khác…
Mũi tấn công thứ hai do Lão Phật Gia tiến hành đánh vào vấn đề “dân chủ” theo kiểu “cách mạng nhung” ở Grudia. Thu Nhãn gọi các cận thần giao cho đi vận động những đối tượng đã được Chử té tát ít nhất một lần do chểnh mảng chuyên môn nên chắc chắn còn căm thù kẻ bạo chúa tương lai này. Còn bà chọn ngày hoàng đạo, giờ tốt, đến nhà cô Xuân Thước trưởng nhóm giáo viên Tiếng Anh. Cô này đang ngồi một mình, trước mặt là một lọ lạc rang và hai hộp sữa chua: một hộp đang ăn dở, một chỉ còn vỏ. Thu Nhãn thầm nghĩ : “ Ăn thế này gì mà chả béo… có khi mình cũng phải học tập…” Nhưng bà khoái món ốc luộc hơn, mấy hôm nay lại phải kiêng vì đang lo việc đại sự. Ăn ốc nói mò! Các cụ bảo thế. Xuân Thước thấy Thu Nhãn đến thì mừng rỡ lắm, cô bảo: “Chị ngồi đây để em chạy ù đi mua mấy hộp sữa chua nữa về chị em mình cùng ăn. Sữa chua kèm lạc rang ngon phải biết!”. Thu Nhãn xua tay: “Thôi cậu cứ ăn đi kẻo sữa chảy hết. Tớ uống nước cũng được”. Xuân Thước cẩn thận gạt cái hộp không sang một bên, vừa ăn sữa chua vừa nghe Lão Phật Gia thủ thỉ… Câu chuyện được khơi lại từ cái bài Anh văn thi cuối năm học của một học sinh do chính Xuân Thước dạy. Nó được chín điểm. Đem về khoe với cả nhà…Tai hại là bố nó lại biết tiếng Anh. Vị phụ huynh này chửi toáng lên: “Giáo viên gì mà không có mắt…” và lấy bút đỏ gạch gần hết bài, sau đó gửi cho Hiệu trưởng. Thế là toàn bộ bài phải chấm lại. Chỉ có non chục phần trăm số bài đạt yêu cầu. Họp bình xét thi đua cuối năm, tổ trưởng Chử tế cho cô một trận vì tội dạy dỗ không ra sao mà lại thích thành tích. Định loè mọi người không biết tiếng Anh. “Ừ thì người ta có sai sót. Nhưng phải ôn tồn… Đằng này lại quát tháo anh em..”-Lão Phật Gia phân tích, Xuân Thước càng nghe càng cảm động. Nước mắt, nước mũi chảy xuống mồm nhoè nhoẹt cùng sữa chua. Thỉnh thoảng cô lại hít đánh “roạt” một cái…Rõ là tội nghiệp! “Đúng là mất dân chủ rất trầm trọng! Bố người ta đấy chắc! Coi giáo viên không bằng nửa con mắt”- Lão Phật Gia nâng quan điểm một cách hùng hồn. Rồi bà nhìn Xuân Thước với ánh mắt vừa ái ngại cảm thông vừa khích lệ: “Người như thế mà lên hiệu phó thì chị em mình chỉ có chết!”- Lão Phật Gia kết luận. Xuân Thước gạt nước mắt. Sữa chua và nước mắt nước mũi qua vết tay để lại trên khuôn mặt cô những vệt ngang nhờ nhờ trông như cổ động viên bóng đá. Cô tán đồng với ánh mắt biết ơn, hứa sẽ cùng nhóm Anh văn ba người của cô quyết tâm lật đổ kẻ độc tài kia. Bà Thu Nhãn nét mặt rạng rỡ, bụng nghĩ hôm nay đúng là ngày tốt.
Sau mỗi ngày vận động, hai nhà cách mạng “dân chủ” lại ngồi kiểm lại số gật, số lắc. Đến khi thấy phe gật của mình đã quá bán thì cùng thở phào. Để cho chắc thắng, bài cuối cùng bậc đàn chị nghĩ đến là ba cô giáo viên sắp hết hạn nghỉ đẻ chuẩn bị ra làm việc. Bà cho cô Văn phòng kiêm phụ trách Nữ công đến từng nhà các cô này bảo: “Còn chế độ nghỉ thì cứ nghỉ đi mà chăm con. Nếu hôm họp có “tiêu chuẩn” thì tớ sẽ mang về cho…Bầu bán chết gì! Kết quả có rồi!” Ba cô thích quá gật liền. Hai chị em yên tâm. Đối phương phen này sẽ mất ít nhất ba phiếu nữa. Tỷ lệ tín nhiệm của Kim Bổng sẽ tăng lên gần chục phần trăm. Tương quan lực lượng thì phần thắng của phe bà chắc trong tay. Mừng quá, tối hôm đó hai chị em rủ nhau ra bờ hồ làm một chầu ốc luộc…
*
* *
Đúng như Thu Nhãn đã tính. Khi bỏ phiếu tín nhiệm thì chỉ còn hai đối thủ: một là Chử và một là Kim Bổng. Bà bố trí người của mình ngồi kèm những đối tượng đã gật và nửa gật nửa lắc để theo dõi và ngầm nhắc nhở. Nhưng bà chột dạ khi thấy ba cô giáo còn đang nghỉ đẻ cũng đến dự bầu. Khốn nạn thế, nó đã hứa rồi…Thôi được, để tính sau.
Kết quả không như ý của bà: Kim Bổng chỉ có hơn chục phiếu. Còn Chử được gần gấp đôi. Bà ngao ngán: “Hỏng rồi!”
Đến lúc này thì Kim Bổng mới tỏ rõ “bản lĩnh” và tài làm chính trị hơn bà tưởng.
Mọi người đều mừng cho Chử và nghĩ rằng như vậy là hợp lý. Nhưng ngay hôm sau lãnh đạo cho triệu tập cán bộ chủ chốt của xã lên. Và hôm sau nữa thì được biết lãnh đạo chửi Chử là thằng khốn nạn. Vận động cả mấy con đàn bà đẻ đi bầu: “Tôi còn làm lãnh đạo thì không bao giờ thằng ấy lên được hiệu phó”. Chử ngớ người: Quyền gì mà mình bắt được người ta đi bầu. Hỏi Hiệu trưởng thì Hiệu trưởng thản nhiên: “Rõ nghe chuyện đàn bà! Còn phải mang hòm phiếu đến nhà người ốm, người tàn tật cho người ta bầu cơ mà… Tôi mới về, tôi muốn biết sự tín nhiệm của toàn thể hội đồng với hiệu phó tương lai. Tôi triệu tập đấy. Sao! Sai à?”
Sai thì không sai nhưng tội gà vạ vịt. Những ngày hôm sau thì Chử được mấy lần cấp trên gọi lên…uống nước. Lúc thì hứa hẹn, lúc thì doạ, bắt Chử phải rút. Chử bảo: “ Tôi được bổ nhiệm hay không là quyền của lãnh đạo. Còn lý do gì mà tôi phải rút?” Lãnh đạo nói: “ Thường vụ xã chỉ chấp nhận cô Kim Bổng làm hiệu phó”. Chử ôn tồn: “ Bây giờ có mời cả trường sắp hàng cho lãnh đạo xã nhận mặt thì đố ông nào chỉ ra được cô nào là Kim Bổng. Trước đây mấy hôm, trong đợt học nhiệm vụ năm học, lãnh đạo xã còn hỏi cô nào là Kim Bổng. Nhưng hôm ấy cô ta lại vắng mặt. Mà không biết mặt sao lại dám bảo chỉ cô ấy mới làm được!”
Vua chả bao giờ nói chơi. Ý kiến quý báu của lãnh đạo là khuôn vàng thước ngọc. Con đường thăng tiến của Chử từ nay đã bị cắt cụt. Còn Kim Bổng được hứa hẹn sẽ bổ nhiệm làm Hiệu phó ở một trường khác. Mấy ngày sau người ta đưa về trường một hiệu phó mới. Người được bổ nhiệm là một giáo viên của một cái trường mà ở đó sĩ số học sinh tụt hàng mảng do thành tích quá cao mà chất lượng lại…quá thấp. Thành ra thừa giáo viên. Việc này chẳng phải bầu bán, chẳng phải lấy ý kiến ai. Cũng là một cách giải quyết!

*
* *
Kim Bổng dù chưa lên Hiệu phó nhưng vẫn còn hứa hẹn. Chiến thắng vẫn thuộc về ta. Thu Nhãn đành tự bằng lòng với cái kết cục không mấy mĩ mãn ấy. Bà khoái trá nhấm nháp cái niềm tự hào: Tập thể cũng phải thua mình, mình là Lão Phật Gia. Với cái quyền lực hão mà bà đã loại được hai kẻ đáng ghét là Lân và Chử. Nhưng sao trông cái mặt của các hắn vẫn cứ tươi hơn hớn như người không biết bực tức là gì? Mà như vậy thì các hắn ấy vẫn có thể còn tiếp tục trêu bà. Làm thế nào để bịt cái mồm tếu táo của quân này được nhỉ? Được rồi. Chữa bệnh thì phải chữa từ gốc: các hắn trêu bà viết đứng thì từ nay bà sẽ viết ngồi. Xem liệu còn có cớ để phạm thượng được nữa không?
Chỉ có điều nếu viết ngồi thì phải đeo kính. Lúc đó mọi người sẽ bảo bà già. Cũng chẳng sao. Già thì Ban Giám hiệu càng phải nể. “Trí thức cao tuổi là vốn quý.” Hình như bà đã nghe câu này ở đâu rồi thì phải. Đúng! Phải tiếp tục cho thiên hạ biết bà là vốn quý. Và phải làm cho mọi người vẫn phải tiếp tục coi bà là Lão Phật Gia của cái Chất lượng cao này!

Hội đồng họp toàn thể ra mắt Hiệu phó mới. Như thường lệ, bà Nhãn là người lên giới thiệu điều hành chương trình: “ Kính thưa đồng chí Hiệu trưởng vô vàn kính mến! Thưa các đồng chí! Qua một thời gian hết sức là gay go, hết sức là vất vả về vấn đề “dân sự” của nhà trường, đến hôm nay mọi việc đã xong. Tôi xin giới thiệu đồng chí Phạm Bích Lan đã có quyết định về làm Hiệu phó trường ta. Đề nghị toàn thể Hội đồng chúc mừng bằng một tràng vỗ tay vang dội!”
Sao hôm nay bà Nhãn nói năng lưu loát thế, dẫu vẫn còn cố tật hay nói chữ. Cả hội đồng chợt nhận ra: bà đeo kính. Một cái kính lão gọng vàng choé choán gần hết khuôn mặt vừa trịnh trọng vừa cao ngạo của Lão Phật Gia. Sau mắt kính, ánh mắt bà lấp loáng đắc ý với cái nhìn ban phát, đầy tự mãn.
Sau phần Hiệu Phó ra mắt, Lão Phật Gia muốn chứng tỏ vai trò cực kỳ quan trọng của mình. Bà yêu cầu “Mọi người phải phát huy tinh thần xung phong ca hát để “phủ định”- À quên! “khẳng định” với Ban Giám hiệu mới về tinh thần lạc quan, gắn kết tổ ấm của hội đồng ta”. Tay Lân xung phong hát. Bà lừ mắt. Hắn vẫn thản nhiên như không: “Tôi xin góp vui bằng điệu hát chèo lới lơ đoạn đầu, đoạn sau cò lả. Đề nghị các đồng chí hưởng ứng!” Hắn “E hèm” mấy cái, rồi khàn khàn cất giọng:“Xin ai …í…ì…ai đừng trách… tình này đừng trách thiếp vô tình..ơi.í..i..ì…Tại í.. người..i tại người vô lý..í..vô lý í í...thiếp thành… nay thiếp í i thành vô duyên...tình tính tang tang tính tình…”
Mọi người đều nhìn bà, không dám cười… Kim Bổng hơi bĩu môi, nét mặt không buồn không vui, mắt ráo hoảnh lướt qua bà rồi chớp chớp mi liếc sang ông Hiệu trưởng. Cô Xuân Thước thoáng nhìn bà rồi mơ màng nhìn lên trần nhà, nơi cái quạt trần đang vật vờ vừa quay vừa lắc. Miệng chẹp chẹp, chắc cô đang nhớ đến món khoái khẩu sữa chua kèm lạc rang. Mấy cô khác phải cúi mặt nhìn xuống gầm bàn, tay bịt mồm để tiếng cười khỏi bật ra. Thu Nhãn thấy không khí trầm quá, chả nhẽ lại hỏng mất cái chương trình ra mắt. Buộc phải làm đầu tàu gương mẫu để anh em hưởng ứng, bà hát đế theo: “Dân làng rằng…” Thế là tất cả cùng oà lên: “Ới dân làng ơi! Rằng có biết, biết hay chăng?… Rằng có biết, biết hay chăng?…” Đọc thêm!

CÂM VÀ CUỘI

TRUYỆN NGẮN

Cái cổng trường Trung học Phổ thông Quang Trung của Thị xã bị đổ vào đêm ngày thứ Bảy.
Một thị trấn vắng vẻ ven biển bỗng trở thành thị xã vì nó được coi là nơi phát triển công nghiệp và du lịch. (Công nghiệp ở đây là nghề làm muối, còn du lịch là do có bãi tắm). Nằm ở trung tâm của thị xã mới được thành lập ấy, trường Trung học Quang Trung như là một niềm kiêu hãnh của mọi người. Bởi nó là trường học có cấp cao nhất ở đây. Niềm kiêu hãnh này lại càng được củng cố bởi cái tên Quang Trung, cho dù ngay bên cạnh (không phải là thị xã) cũng đã có trường mang tên Nguyễn Huệ. “Anh Quang Trung to hơn, có chất lượng cao hơn anh Nguyễn Huệ”- Đấy là lời các lãnh đạo thị xã mỗi khi nói về ngôi trường yêu quý của mình.
Và để xứng tầm anh Quang Trung to hơn anh Nguyễn Huệ người ta xây cổng trường cũng to hơn. Trông nó bề thế và uy nghi lắm. Nó đối diện với nhà riêng ba tầng của Chủ tịch thị xã nên phải to, phải cao là lẽ dĩ nhiên.
Cái cổng trường được trang trí rất cầu kì với 4 trụ cổng vuông ốp gạch men màu mận chín. Bốn cái trụ đội một tấm bảng lớn bằng bê tông có dòng chữ Trường Quang Trung. Trên nóc bảng, ở chính giữa người ta thiết kế một con hải âu giang cánh đậu trên quả địa cầu, một bên là quyển sách mở với ngọn đuốc đang rực cháy, bên kia là mẫu nguyên tử hạt nhân biểu tượng khoa học. Do tài năng khiêm tốn của cánh thợ thi công nên quả địa cầu không được tròn lắm. Con chim hải âu có cái bụng quá đầy đặn trông giống một con vịt đang xoè cánh... con hải âu lai vịt ấy như vừa chui ra từ trong quả trứng- địa cầu. Còn bó đuốc thì giống một cái chổi rơm màu đỏ dựng ngược. Cổng được tô màu xanh đỏ sặc sỡ nên bà con thị xã đi làm muối về qua thường khen nức nở. Vì thế cả người thiết kế, người thi công và cả lãnh đạo đều hài lòng với công trình kiến trúc ấy.
Ấy vậy mà bây giờ cái cổng lại sụp xuống. Nó đổ vào ban đêm. Trời mùa đông, mọi nhà đóng cửa kín. Trong giấc ngủ nồng nàn, người ta chỉ mơ màng nghe thấy “ình”, sau đó thì yên ắng, nên cũng chẳng ai trở dạy. Đến sáng ra, mở cửa nhà, tự nhiên thấy một khoảng trống: cái cổng đã đổ rồi. Cái bảng tên trường vỡ tan gần một nửa, chỉ còn hai chữ Trường Quan... các chữ khác bay đâu mất, giơ ra những thanh sắt quăn queo. Mấy cái cột cổng nằm chình ình, thân vặn như bị xoắn, cái nọ chồng ngang lên cái kia trông như khẩu thần công ngếch nòng vuông hướng về nhà Chủ tịch Thị xã. Con hải âu bay mất mỏ, cụt ngủn đôi cánh, chỉ còn cái đầu tròn tròn ngóc lên khỏi đống bê tông vụn. Quả địa cầu thì văng ra xa cách đống đổ nát đến gần hai mét. Tan hoang như cảnh bên I-rắc bị quân Mĩ đánh bom chiếu trong ti vi.
Thông tin cái cổng trường bị đổ lan nhanh như điện toàn thị xã. Mấy nhà bình luận đầu trọc, túi thủng vì dạo này trời rét, nhà nghỉ vắng khách, suốt ngày ngồi xổm trên ghế các quán trà ngoài bãi tắm được dịp bàn tán về cái sự kiện có một không hai này. Y như bên Mỹ người ta bàn luận về cái sự cố ngày mười một tháng chín năm nào. Một ông đeo kính râm bảo tại thi công ăn bớt vật liệu nên mới thế. Tức thì một ông khác cãi lại ngay: nếu thi công bớt vật liệu thì tại sao nó không đổ ngay sau khi làm. Chắc là bị động đất. Có khả năng động đất thật! Bởi hồi đêm người ta thấy giường hơi rung một tí, sau đó là tiếng “ình”. Đấy là những người nhà gần thấy thế chứ còn những người ở xa vài trăm mét chả thấy gì cả. Nếu động đất thì phải đổ nhiều nhà khác chứ sao lại chỉ đổ mỗi cái cổng trường. Vả lại có ai nghe thấy đài báo nói gì về động đất đâu. Lạ nhỉ. Thế thì tại sao?
Sau khi viện mọi lí lẽ để tìm nguyên nhân nhưng không có nguyên nhân nào xác đáng, người ta tập trung vào cái hướng nghe có lí nhất là do mấy ông giáo trong trường không chịu cúng bái, động thổ hạ móng công trình gặp phải đúng ngày địa tặc. “Các ông trí thức hay khinh nhờn cái việc cúng bái nên mới thế”. Nhưng lại có người bảo: “Ông nói vậy là đếch biết gì. Ông hiệu trưởng nhà trường sòng lắm. Hôm động thổ xây cổng trường mời thầy cúng tưng bừng cả ngày trời. Hôm ấy học sinh nghỉ học cả, tôi thấy chiêng trống ầm ầm, tưởng nhà trường tập văn nghệ nên ghé vào xem, thấy có ông thầy cúng đang làm lễ. Giấy tiền vàng mã đốt một đống tướng, lửa đùng đùng như cháy nhà! Có cả hình nhân bằng rơm nữa.” Nhiều người xác nhận: Trước khi hội giảng, trước khi thi tốt nghiệp... nhà trường đều mời thầy cúng. Có thờ có thiêng. Làm gì có chuyện khinh nhờn... Lời qua tiếng lại, ai cũng giữ ý kiến phỏng đoán của mình, chẳng ai chịu ai. Thế là cãi nhau. Rồi mọi người cũng chợt thấy cái vô lí của mình khi nghe cô chủ quán lên tiếng: “Rõ vớ vẩn! Nó đổ kệ nó, các ông có đổ đếch đâu mà rỗi hơi cãi nhau. Về mà trông hàng cho vợ con!”. Tự dưng mấy ông nhớ tới nhiệm vụ của mình. Hôm nay là chủ nhật. Thôi thì phải về nom hàng, xem may ra có kéo được vị khách nào dửng mỡ trái mùa muốn tìm của lạ. Dạo này rét mướt, người ra bãi ít quá. Cứ ngồi đây thì thất thực... Vậy là giải tán. Nhưng những cái đầu thì vẫn nghĩ: Tại sao cái cổng của anh Quang Trung bị đổ?
*
* *
Khi mở cửa, nhìn thấy cái cảnh tan hoang, ông Chủ tịch Thị xã không nói gì mà lẳng lặng vào nhà. Mọi người thấy thế cho rằng ông đang bực lắm. Phen này thì khối anh chết. Mà quả là ông đang bực thật. Ông vừa nhận Huy chương Vì sự nghiệp Giáo dục. Đang gắn vào cái hộp kính treo trên tường sắp hàng cùng với các Huy chương Vì sự nghiệp Văn hoá quần chúng, Huy chương vì Sự nghiệp Khuyến học, Huy chương vì sự nghiệp...có dễ đến gần chục cái Vì sự nghiệp các loại thì bà vợ yêu quý của ông ỏn ẻn: “Toàn là Vì sự nghiệp… ấy mà cấm có thấy đứa nào vì lãnh đạo, chả mấy khi thò mặt đến”. Ấy là bà có ý trách những cái anh chỉ biết lấy lời khen hay thay phong bì. Mấy chú bên kinh tế, đậm đà lắm, tình nghĩa lắm, mà lại kín đáo chứ chả phô trương. Đúng là đàn bà chỉ biết một mà không biết hai: Tiền ông giữ, xây dựng cơ sở vật chất ông nắm, công tác cán bộ ông điều hành trực tiếp; mấy cái anh giáo dục còn gặm được cái gì ngoài việc lo chuyên môn. Có đâu mà phong bì với phong bao. Nó chỉ có cái huy chương là để tri ân đối với ông về sự hết lòng vì nền giáo dục của quê hương. Hương án giữ mặt tiền. Có người lo phía sau phải có người giữ phía trước. Vậy mà bà vợ không biết cho. Thế mới bực!
Đã là lãnh đạo thì phải quan tâm đến tất cả các ngành. Các ngành thì lại muốn được lòng lãnh đạo để được ưu ái hơn nên các loại huy chương vì sự nghiệp... cứ như sao trên giời sa xuống đậu vào ngực ông. Bao giờ người ta cũng nói: “Chỉ có anh là xứng đáng nhất, bởi vì không có anh thì làm sao có phong trào...” Ông biết là họ nịnh. Nhưng ông cũng thấy tự hào. Thầy giáo của ông trên ba mươi năm dạy học cũng chỉ được nhận Huy chương với ông cùng ngày. Mà ông thầy ấy còn phải mấy lần làm hồ sơ xét duyệt lên, xét duyệt xuống mới được. Còn hồ sơ Vì Sự nghiệp của ông thì đã có cánh cán bộ Phòng Giáo dục thị xã làm tất. Họ lại còn phải năn nỉ ông thì ông mới chịu kí vào bản thành tích công lao của chính mình. Bởi vì ông rất khiêm tốn. Mà mấy tay ấy nó sáng tác thành tích cho ông đến là khéo. Nào là ông chỉ đạo phổ cập cấp hai đạt chuẩn sớm nhất trong tỉnh, nào là ông nghiêm túc chỉ đạo cuộc vận động hai không mà chỉ số chất lượng vẫn cao hơn trước khi chưa có hai không. Ở đâu thì không biết chứ còn ở thị xã này dứt khoát là không có chuyện học sinh ngồi nhầm lớp!
Thực ra cái sự chỉ đạo của ông là sự quyền biến từ có thành không và ngược lại. Ông hùng hồn tuyên bố Phổ cập là công việc trọng tâm quyết định việc hoàn thành nhiệm vụ của các nhà trường. Bằng mọi giá phải phổ cập! Hiệu trưởng nào không làm được phổ cập cấp hai thì sẽ bị cách chức! Thế là Hiệu trưởng các trường hoảng tam tinh: Phấn đấu mãi, thậm chí phải chạy chọt mới có cái ghế xoàng xoàng. Chả nhẽ lại để mất vì cái sự không phổ cập. Học sinh bỏ học nhiều, chả có thể cản được. Nhưng vẫn phải phổ cập. Cái khó ló cái khôn. Người ta đã phát minh ra sáng kiến vĩ đại: biến cái số học sinh bỏ học thành số học sinh chuyển trường. Đất nước rộng bao la, cứ bảo chuyển trường đi Tây nguyên, đi miền Nam, đi Quảng ninh, đi… Có giời cũng chẳng kiểm tra được. Vậy là thị xã lập nên kì tích: Từ ngày thành lập đến nay không có học sinh nào bỏ học. Sự phổ cập trở nên chắc chắn. Còn cái việc học sinh ngồi nhầm lớp, ông giải quyết cực kì ngoạn mục. Ông bảo văn phòng thảo công văn chỉ thị cho các nhà trường phải rà soát lại xem có hiện tượng này không. Tay văn phòng làm ngay tắp lự đưa ông duyệt. Lúc đó ông bảo phải thêm vào câu: “Nếu trường nào có học sinh ngồi nhầm lớp thì hiệu trưởng và giáo viên phải chịu trách nhiệm, chịu kỉ luật”. Chẳng ai muốn bị kỉ luật! Và kết quả giáo dục thị xã tuyệt đối lành mạnh. Được đà ông giao kế hoạch cao hơn năm trước. Một số tay hiệu trưởng có ý kiến thì ông bảo: “Các anh báo cáo không có hiện tượng ngồi nhầm lớp. Đúng không nào? Thế thì chỉ tiêu chất lượng không có lí gì lại thấp được. Chẳng ai phú quý giật lùi, bế con dốc đầu trở xuống.” Cái lí trên đời vẫn phải thế. Vậy thì hai không chứ bốn không hay đến mười không cũng thế thôi. Thành tích giáo dục của thị xã vẫn ngời ngời, ông lại vừa lĩnh huy chương… Vậy mà cổng của cái anh Quang Trung lại bị đổ.
Cái sự bực dọc với vợ còn có nguyên nhân khác. Tay em vợ ông làm thiết kế cái cổng, còn thi công do chính em rể vợ ông đứng ra cai thầu. Ở cái thị xã này thì tất cả các công trình đều do ông bật đèn xanh nên các em vợ ông bao thầu trọn gói. Ông cũng yêu cầu phải dân chủ minh bạch trong cái việc này lắm. Các em ông bao giờ cũng thắng thầu. Đó là cái lẽ dĩ nhiên. Các doanh nghiệp khác biết thân phận đành bán sới đi nơi khác làm ăn. Đối với cái công trình này, ông đã bảo: “Thôi! Cái này không bõ bèn gì! Cho thằng khác nó làm. Để được cái tiếng khách quan” Nhưng bà vợ khóc lóc nói rằng ông không biết thương người nhà mình. Hay là ông lại bị con nào xỏ mũi dắt dây... Thế là ông đành... Đã ưu ái như thế mà lũ em vợ ông còn làm ăn như c...! Vua nghe vợ mất nước! Không khéo lại mang tiếng.
Giữa lúc ấy thì ông em vợ đến, mặt tái nhợt ấp úng:
- Thưa anh…
Ông lộn tiết:
- Thưa cái con khỉ. Làm thằng kỹ sư xây dựng mà ngu. Bây giờ nó đổ rồi, trắng mắt ra chưa?
Cán bộ trong thị xã này bị ông Chủ tịch chửi là ngu là chuyện bình thường. Tay kĩ sư định thanh minh nhưng ông bảo ngay:
- Về thiết kế lại! Rồi bảo tay Quang Trung lập dự án sang tôi kí. Khẩn trương làm lại ngay!
Tay kĩ sư em vợ sướng quá. Không ngờ mọi việc lại giải quyết đơn giản đến thế. Không điều tra nguyên nhân, không xác định trách nhiệm, không kỉ luật ai! Nhưng mình cũng đã thiết kế còn trên cả những tiêu chuẩn kĩ thuật theo những điều mình đã học. Công trình lại do chú em rể làm. Nếu nó có ăn bớt đến bốn mươi phần trăm thì cũng vẫn còn đủ tiêu chuẩn kĩ thuật. Thế mà cái cổng vẫn đổ. Tại sao nhỉ?
*
* *
Vậy mà có người biết rõ nguyên nhân cái cổng trường bị đổ!
Người đó là Quắc câm. Năm nay hắn cũng đến ba chục tuổi nhưng người bé loắt choắt như đứa trẻ mười hai. Có lẽ cái tên kèm phụ danh ấy là do ngày còn bé hắn không nói được. Cũng chẳng phải chữa chạy gì mà đến khoảng năm mười hai tuổi thì tự dưng người ta thấy hắn biết nói. Nhưng hắn không nói bằng tiếng ta mà bằng một thứ ngôn ngữ gần giống tiếng ta. Thành ra hắn nói thì chỉ mình hắn nghe. Và cũng chỉ có một người dịch được cái thứ tiếng ấy. Người đó là anh cán bộ thông tin thị xã. Nếu như không có anh ta thì Quắc vẫn là người câm. Vậy ra cái sự câm của một người là do người ấy nói bằng một thứ ngôn ngữ mà mọi người không hiểu. Do được coi là người câm và lại hơi ngố nên hắn là người thừa của xã hội trong việc học hành, việc ăn việc ở: hắn chẳng có nhà cửa, chẳng đi học, chẳng ai quan tâm rằng hắn sống hay chết. Bố mẹ hắn đã chết cả. Mảnh đất ngày xưa của bố mẹ hắn được người ta giao cho người khác để xây nhà nghỉ từ khi thị trấn lên thành thị xã. Vì vậy hắn phải tự tồn tại một cách vất vưởng. Đêm hắn ngủ ở lều chợ, ngày thì xem nhà ai có việc gì thì đến làm, nếu không có việc thì hắn lang thang ở các cơ quan xung quanh. Được cái hắn chả bao giờ lấy trộm của ai cái gì, lành tính và thích chơi với trẻ con. Hắn rất khoái nghe chuyện cổ tích. Những thằng Bờm, chú Cuội trong các câu chuyện của bọn trẻ con, hắn nghe chăm chú và hình như hắn tưởng thật. Chả biết có phải vậy không, nhưng người ta thấy hắn hềnh hệch cười vô tư lắm. Mọi người cũng vô tư khi thấy hắn. Hắn giết gà rất giỏi và bốc mả, nhập liệm người chết rất cừ. Điều đặc biệt hơn là nhớ rất kỹ ngày chết của những người trong xóm. Thành thử hắn là người không thể thiếu trong các đám cưới: vài ba chục con gà, hắn trổ tài chỉ một loáng là xong. Những đám ma thì lại càng cần hắn hơn bởi vì chả mấy ai dám làm cái việc bó gói người chết… Hắn vừa làm vừa ú ớ nói với người chết theo một thứ ngôn ngữ riêng của hắn. Còn cái việc bốc mả thì hắn độc quyền, vì ở cái thị xã này duy nhất có mình hắn dám thò tay nhặt từng cái xương người... Và hơn nữa, thấy hắn đến ngõ thì người ta nhớ ra: ngày mai nhà mình có một cái giỗ. Còn giỗ ai thì đợi hắn vào nhà. Hắn sẽ bảo mọi người bằng cách chấm tay vào chén nước, viết xuống bàn tên người mất. Mà cũng lạ, không biết hắn biết chữ từ khi nào, học vào lúc nào và ai là người dạy chữ cho hắn? Người ta gọi hắn là người âm phủ. Người âm phủ thì chỉ ma nó mới lấy. Con gái trần gian sợ hắn. Cho nên hắn không có vợ...
Một buổi sáng, người âm phủ đến nhà anh thông tin. Anh này đang ngồi ngáp vì buồn chán bởi thủng túi, mà lại đang cơn thèm rượu. Quắc hềnh hệch cười ngay từ đầu ngõ. Chàng thông tin định đuổi về. Nhưng Quắc câm ú ớ: “Hây hấm… trô hấm…” Tay thông tin lơ đãng: “Cái gì mà hay lắm, to lắm… Về đi! Chỉ dớ dẩn.” Quắc không chịu về và lại tiếp tục cái thứ ngôn ngữ quái dị: “Cổi quầng… trô hấm… trấng hấm…” “Sao mày khốn nạn thế, nhìn trộm đàn bà thay quần lại còn về khoe to lắm, trắng lắm. Xéo ngay! Tao lại cho cái tát bây giờ.” Quắc luống cuống, hắn chấm ngón tay trỏ vào chén nước viết lên mặt bàn hai cái tên và lại bảo: “Cổi quầng… trô hấm…hây hấm” rồi hắn làm cái động tác vừa ưỡn cái bộ phận dưới vừa cong mông lắc lắc như người ta nhảy Lăm-ba- đa, nhịp nhàng cong ưỡn... Tay thông tin sáng mắt: “Đi! Có rượu rồi”.
Chiều hôm ấy, hai tay: một câm, một cán bộ thông tin say nghiêng ngả mà túi vẫn còn nặng. Chả là khi nghe Quắc thông báo, tay thông tin biết ngay sự việc. Hắn đến cả hai đương sự đã cùng nhau thoát y nhảy Lăm- ba- đa tại chỗ ở cơ quan, gặp riêng từng người, ỡm ờ đưa ra cái thông tin và có cả nhân chứng xác nhận bằng cách gật đầu. Cả hai ngớ ra. Lúc họ hành lạc thì có biết Quắc trông thấy nhưng cả hai đều nghĩ: Sợ gì thằng câm! Cứ để nó nhìn cho sướng. Câm thì nói được với ai. Nhưng ai ngờ lại có người hiểu được tiếng của thằng câm. Để đảm bảo an toàn cho cái ghế và mái ấm gia đình, giữ trọn tiết hạnh, nên cả hai (Dĩ nhiên là từng người) đều có thù lao hậu hĩnh cho sự im lặng của bộ đôi câm biết nói.
Tự nhiên bộ đôi này lại có thêm nguồn thu nhập. Vì tay thông tin là người biết giữ lời hứa. Những sự việc tương tự không đến nỗi hiếm. Quắc vẫn ra vào các cơ quan trong giờ nghỉ như thường.. Những khổ chủ bị các hắn tống tiền thì chẳng ai dại gì mà lại nói ra, nên người khác không biết vẫn cứ tưởng Quắc câm. Mà cái sự không biết ấy đồng nghĩa với sự không cảnh giác. Vậy là tay thông tin cứ việc kính thưa các ông đã bị bắt và chuẩn bị kính thưa các ông sắp bị bắt về cái sự hây hấm…
Cái đêm hôm thứ bảy đáng nhớ ấy, Quắc câm đã đi nằm. Từ nửa tháng trước, tay thông tin đi vào miền Nam cưới cháu. Bộ đôi câm biết nói chỉ còn một nửa, mà nửa còn lại là cái nửa câm. Thành thử Quắc bơ vơ. Khốn nạn thế, rõ trông thấy hây hấm mà không làm gì được. Thế mới hay rằng: biết đã là khó, nhưng nói ra cái điều mình biết càng khó hơn. Vậy là không kiếm được gì, thành ra đói. Đói quá khó ngủ. Lều chợ thì trống hoang trống hoác. Trời lại rét. Gió may đập phành phạch trên mái lều. Co quắp hết cỡ với cái chăn chiên mỏng mà vẫn rét nên hắn càng không ngủ được. Thò cổ nhìn ra ngoài: trăng sáng nhờ nhờ. Thành ra thấy thèm chén rượu, thèm có cái chăn ấm. Giá có một người nữa ngủ chung... Tự dưng Quắc câm ta nhớ lại những cảnh hành lạc Lam-ba-đa mà hắn được chứng kiến. Sao mà người ta sướng thế không biết. Đã có rồi mà người ta vẫn thấy còn thiếu, còn phải… Còn Quắc, hắn chẳng có gì. Dẫu câm thì Quắc vẫn là con người. Một người đàn ông hẳn hoi. Đủ bộ phận... ấy thế mà lại thiếu. Đã thiếu thì ắt sinh ra thèm. Vừa thèm cái sự hây hấm vừa thèm ăn! Trăng sáng thế kia thì phải đi. Nghiện cái vai trò thám tử rồi. Không đi thì không chịu được. Chí ít thì cũng có cái để mà hềnh hệch cười một mình. Để mà giải toả. Hắn vùng dậy, cuộn cái chăn nhét lên mái lều.Vậy là đi…
Quắc vật vờ xiêu vẹo đi trong cái đêm trăng lạnh. Hắn xuôi ra bãi biển. Về đêm, bãi vắng tanh. Càng lạnh. Hắn lại ngược về khu phố. Đèn đường tắt từ lúc nào. Có lẽ đã khuya lắm. Mọi ngày đối với Quắc thì khuya hay sớm chả quan trọng. Nhưng hôm nay thì khác. Hắn vừa đi vừa mong cho chóng sáng. Mong cho tay cán bộ thông tin chóng về… Hai tay khoanh trước ngực, mắt ngủ gà gật, hắn đi theo hình chữ chi trên mặt đường nhựa, vậy mà chẳng đụng chạm vào ai bởi đường phố cũng vắng tanh vắng ngắt. Đưa đẩy thế nào mà Quắc lại rẽ sang khu phố có trường Trung học. Ừ phải rồi! Đến cái cổng trường ấy có khi lại kiếm được mấy mẩu thuốc lá cũng nên. Bọn học sinh khi đến đấy thường hay vứt những điếu thuốc đang hút dở vào chân bờ tường gần cổng vì bị cấm hút thuốc lá trong trường. Lạnh thế này mà được hơi thuốc thì còn gì bằng. Thế là hắn xăm xăm đi đến đó.
Đến gần cái cổng thì Quắc bỗng khựng lại. Roạch toạch toạch…Roạch toạch toạch…Cái gì thế nhỉ. Hắn hơi hoảng. Nhưng cái tiếng roạch toạch toạch ấy vẫn đều đều không có vẻ gì là đe doạ. Định thần hắn nhìn quanh: Không thấy có người. Hắn nhìn lên… Ối giời ôi! Giá mà nói được như mọi người thì hắn đã kêu to lên như vậy. Nhưng hắn lại là thằng câm nên chỉ ú ớ không thành tiếng.
Một cái hòn núi biết bay! Thật! Một hòn núi to lù lù đang bay lơ lửng trên lưng chừng giời sát ngay trước nhà ông Chủ tịch Thị xã, trên núi lại có cả một cái cây cổ thụ... Hình như cây đa. Chả nhẽ… Trong cái đầu mụ mị nửa tỉnh nửa mê của Quắc tự dưng lởn vởn chuyện chú Cuội ngồi gốc cây đa. Hắn nhìn lên mặt trăng. Mặt trăng lúc này bị một đám mây mỏng che khuất nên chỉ thấy một quầng sáng lạnh. Vậy thì đúng rồi. Cây đa trên mặt trăng đang bay xuống đất…
Không phải! Hòn núi với cây đa đang bay lên. Hãi quá. Nhỡ mình bị kéo lên mặt trăng theo cây đa như chú Cuội thì sao? Quắc dợm chân định chuồn. Nghĩ đến cái lều chợ trống hoác thì hắn dừng lại. Chả sợ! Lên mặt trăng hắn sẽ đánh bạn với chú Cuội như đánh bạn với ông cán bộ thông tin. Liệu trên mặt trăng có cái hây hấm không nhỉ? Nếu không có thì lại đói. Nếu cứ phải lên thì sao? Chợt nhớ mọi người vẫn bảo hắn là người âm phủ. Mà ai người ta cho người âm phủ lên giời! Vậy là yên tâm.
Có núi, có cây đa. Sao không thấy chú Cuội?
Từ tầng ba nhà ông Chủ tịch có một cái đầu thò ra. Tiếp theo là một cánh tay thò ra như vẫy vẫy hòn núi và cây đa. Dưới này Quắc thầm nghĩ: Khôn thế! Thì ra chú Cuội đã đợi sẵn trên tầng ba nhà ông Chủ tịch. Khi cây bay ngang tầm, Cuội ta sẽ leo lên. Quắc nín thở căng mắt chờ xem chú Cuội trèo gốc cây đa như thế nào. Hắn dựa vào bức tường, cố thu mình kẻo chú Cuội trông thấy…
Nhưng tại sao lại cứ roạch toạch toạch…Quắc nhìn sang: Từ cái bảng trên nóc cổng trường Trung học, một sợi dây cáp to tổ bố vắt qua đường trên lưng chừng giời níu ngọn hai cây cột sắt cao ngễu nghện đang chụm đầu choãi chân như hai cái càng vó bè, chúi ngọn sát ngay trước nhà ông Chủ tịch. Sợi cáp thẳng căng giữ cho hai cái cột đứng nghiêng nhưng vững vàng chịu sức nặng của vật thể bay. Roạch toạch toạch… Roạch toạch toạch… cứ mỗi cái roạch toạch toạch thì hòn núi cây đa lại bay lên một tí. Rồi thì hòn núi cùng với cây đa cũng lên đến tầng ba. Lại thấy lố nhố mấy bóng người kéo ngang nó vào phía sân tiền sảnh tầng ba, nơi có giàn bê tông ngang dọc phía trên. Hòn núi cùng cây đa vừa vào yên vị trong một cái bể, dây cáp trên nóc cột vừa được nới lỏng thì nghe tiếng “ình”...
Giật nảy mình. Đoạn tường Quắc đang dựa rung lên... Ngoái sang: cái cổng trường đã đổ vật xuống…
Hoảng quá. Quắc co cẳng chạy. Quên cả đói. Quên cả buồn ngủ! Quên cả thèm!
*
* *
Cái cổng của anh Quang Trung đã xây lại. Vẫn bề thế hơn anh Nguyễn Huệ. Tay cán bộ thông tin đã về. Bộ đôi câm biết nói trở lại hoạt động như xưa. Một lần cùng với tay cán bộ thông tin đi qua trường Trung học, Quắc câm chỉ tay lên trên tầng ba nhà ông Chủ tịch Thị xã, miệng ú ớ: “Cội…Cội…Hây hấm...”rồi lại hềnh hệch cười chỉ tay sang cổng trường. Hắn nói gì nhỉ? Tay thông tin nhìn theo tay chỉ của Quắc, rồi sử dụng hết công suất khả năng dịch tiếng Quắc sang tiếng ta, lờ mờ suy đoán… Chả nhẽ ông Chủ tịch Thị xã mà lại có chuyện ấy ngay tại nhà mình? Nếu vậy ta lại đến Kính thưa... Không thể được! Cái sự hây hấm của lãnh đạo nó khác. Nhưng là cái gì? Mà sao thằng dở người kia lại bảo Cội, Cội...? Thằng này thích chuyện cổ tích. Cội là cái gì nhỉ? Cội...Cuội... Nó bảo ai là Cuội? Mà Cuội với cái cổng trường bị đổ thì có liên quan gì với nhau? Hay là...
Thế rồi sự đoán mò được khẳng định một phần hôm tay thông tin nghe thấy ông Chủ tịch Thị xã mắng ông em kĩ sư xây dựng khi ông này một lần nữa lại định thanh minh về tính hoàn hảo kỹ thuật của cái cổng:
- Sao cậu bảo thủ thế! Chỉ biết tính đến lực ở trên nén xuống. Tưởng vậy là vững. Sao không tính tới khi cái bảng ở trên bị kéo lên, nghiêng đi... thì cả những trụ dưới cũng đổ theo. Làm kĩ sư xây dựng lâu năm thế mà vẫn còn ngu!... Đọc thêm!

Thứ Tư, 6 tháng 1, 2010

NHÀ VĂN LÊN PHỐ

TRUYỆN NGẮN


Ối anh ơi là anh ơi! Anh đi đâu mà bỏ mẹ con em bơ vơ! Vợ hắn tả tơi thất thểu dọc theo bờ kênh vừa nhìn xuống dòng nước vừa quệt mắt. Dưới kênh chỉ thấy có bèo ong và bèo tây lẫn lộn. Ối anh ơi anh ơi là anh ơi... Người đàn bà rên rỉ nhưng không dám khóc to. Trăng sáng vằng vặc. Có một chỗ bèo dạt ra, thấy rõ bóng trăng in trên đáy nước. Lạ nhỉ, mọi chỗ bèo kín đặc mà đây lại không có bèo, hay là ở chỗ này... Anh ơi, anh có thiêng thì chỉ chỗ để em vớt anh lên. Người đàn bà định nhảy xuống. Nhưng nhỡ phải chỗ nước sâu... nhỡ hắn kéo mình xuống thì chết cả đôi. Nhìn quanh, thị vớ được một cành chà rào. Thị đưa cành chà rào xuống cái lỗ nước nơi không có bèo. Mắm môi mắm lợi, thị rà cái cành chà rào... Hắn cũng chẳng to lớn gì, nếu hắn mà ở dưới ấy thì chỉ cành chà rào cũng có thể kéo được hắn lên. Nhưng không thấy. Vậy hắn ở đâu? Nốc cho lắm vào rồi khướt ra. Đâm đầu vào chỗ nào rồi không biết. Bà mà vớ được thì bà cho biết tay. Thơ với chả văn rồi lúc say thì khướt khườn khượt, lúc tỉnh thì như thằng mất hồn, lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác... Ôi giời ôi! Sao kiếp tôi nó khốn nạn thế hả giời... Lấy được ông chồng có nghề nghiệp hẳn hoi, lại lắm tài vặt. Ai cũng bảo là tốt số. Tự dưng đọa ra, bỏ hết mọi sự chẳng thiết làm ăn gì. Ấy là bởi cuồng lên đi viết văn, làm thơ. Rồi thì rượu. Thơ văn phải có rượu. Rượu- thơ, thơ- rượu... Mồm leo lẻo bảo rằng như thế mới là tiên. Tiên với chả Phật! Mới hơn ba chục tuổi đầu bỗng thành thằng không tuổi, đang sáu mươi cân tọp lại còn hơn bốn chục cân, vêu vao đầu gối quá tai, gầy còn hơn cả La Hán. Cả năm may ra mới được một cái truyện ngắn đăng báo, được vài trăm nhuận bút thì lấy làm khoái chí lắm. Bỏ tiền phô tô vài chục bản đem phân phát tứ tung. Lại còn bắt vợ mua rượu mua nhắm đãi bạn. Rồi cả đám, người thì trọc lông lốc, người thì tóc tai bù xù, mặt mày tái dại ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Rượu vào lời ra ngồi nịnh nhau: Tài!... tài thật! Thánh! ... thánh thật!.. Nghe mà rực ruột. Tài cái con khỉ! Tài gì mà cả năm mới được mấy cái đồng bạc còm rồi bắt vợ bỏ tiền bù lỗ. Thánh! Thánh cái giời vật! Thánh mà để người ta chửi cho chẳng bằng con chó. Chưa xong bữa đã có người đến chửi. Người chửi là cái thằng hàng xóm. Vì viết cái gì không viết lại viết về con chó chột mắt hay sủa càn, để nó nghĩ là nói xỏ mình vì thằng này cũng bị hỏng một mắt. Thật khốn nạn! Nuôi được cái lão nhà văn để rồi lỗ chỏng chơ, thiệt đơn thiệt kép lại còn bị người ta chửi cho mất mặt. Đợt này á! Bà cấm tiệt. Cứ còn ngồi mà viết, thì bà bẻ bút.
Mọi lần, thị mặc kệ hắn tít mít tối ngày. Muốn đi đâu thì đi, đi chán thì về. Muốn viết gì thì viết. Thì ngoài viết ra, hắn có làm gì đâu. Người ta làm nhà văn để nuôi vợ nuôi con. Còn thị thì vất vả đầu cúi đít chỏng là để nuôi nhà văn và một lũ con- sản phẩm của những bốc đồng sau những bốc đồng viết lách. Quán xuyến mọi việc trong nhà, làm lụng nuôi con, đối nội đối ngoại, một tay thị đảm đương. Mà có bắt hắn phải đảm đương thì hắn cũng chịu. Chỉ được cái võ mồm, nói năng thì đến cua trong lỗ cũng phải bò ra. Cái lo nhất của người đàn bà là giữ chồng. Nhưng cái việc ấy thì thị hoàn toàn yên tâm. Người chả ra hồn người, loẻo khà loẻo khoẻo lại cả tháng giời không tắm, lúc nào cũng sặc mùi rượu. Giá có động đến thì nhũn nhùn nhùn như con chi chi thì bõ bèn gì mà lo thiên hạ nó chài. Gớm! Báu lắm đấy. Ai rước hộ đi thì may quá.
Nhưng lần này thì khác. Buổi sáng, trước khi đi làm đã thấy hắn ngồi vào bàn viết, thấy hắn thở dài thườn thượt, mặt mày ra vẻ đăm chiêu. Cũng chẳng lạ gì cái kiểu dở người ấy. Trưa về, vẫn thấy hắn ngồi nguyên như cũ, chỉ thêm cái mi mắt rưng rưng. Cũng chẳng lạ, chắc là hắn đang khóc cùng nhân vật. Tự dưng tự lành tưởng tượng ra nhân vật rồi ngồi khóc với nó. Đúng là dở hơi. Cái đáng khóc chả khóc lại đi khóc cho cái mà mình tưởng tượng. Kệ! Chẳng việc gì đến thị, thị phải đi làm. Cứ ngồi đấy mà tưởng với tượng, mà khóc với mếu thì lấy cái gì đổ vào mồm. Nhưng cả nhà ăn cơm tối xong cũng không thấy hắn ló mặt về. Tự dưng thị thấy nóng ruột. Cố ngồi đợi. Nửa đêm vẫn không thấy. Thị gài cửa rồi đi tìm. Chắc hắn lại say khướt với mấy ông trong làng. Nhà ở giữa đồng vào đến làng phải đi dọc theo bờ kênh. Đi ra khỏi nhà được mấy chục bước thì thấy cái xe đạp chổng bánh sau lên bờ còn bánh trước chìm nghỉm dưới nước. Thôi chết rồi. Say quá đây mà. Vợ hắn hoảng hồn vừa vác chà rào rà dọc kênh vừa khóc...
Rà hết cả một đoạn dài mà không thấy. Yên tâm là hắn không nằm ở dưới đáy kênh. Vậy thì hắn chẳng việc gì. Không khóc nữa! Thị lôi cái xe đạp lên té nước rửa qua loa rồi dong về nhà. Hay là đi với con nào? Cái mồm tía lia như hắn thì không biết chừng lại có con dở hơi nào mê muội cũng nên... Chả nhẽ. Chả có con nào lại ngu quá ngu quẩn đến như vậy nếu hắn không có tiền. Tiền! Thôi chết rồi. Vứt xe ở sân, thị chạy vào buồng, vội vã lục cái va li bẹp. Không thấy! Mất rồi! Có ba trăm bạc vừa bán ổ gà để đóng học cho con, hắn lấy đi mất rồi. Giời ạ! Sao số tôi nó khốn nạn thế. Khốn nạn!... Sao tôi không chết đi cho rồi. Chồng ơi là chồng! Muốn gào lên nhưng sợ lũ con thức giấc. Thị giàn giụa nước mắt.
Suốt đêm ở hiên nhà, người vợ ngồi bó gối rấm rứt khóc.

*
* *

Hắn thủ ba trăm của vợ thật. Nhưng không phải để đi với con nào. Hắn đi kiện. Kiện một tờ báo có uy tín mãi tận Trung ương. Sự thể như thế này: Hôm qua một ông bạn viết cầm tờ báo đến nhà hắn. Chúc mừng ông! Cái Chị Lượt của ông được Thời Cuộc chọn đăng! Nhưng sao đề tác giả là Sỹ Vượng? Hắn ớ ra. Thật á! Sỹ Vượng là cái thằng chó chết nào mà lại dám lấy bài của tao. Chắc là trùng tên truyện đấy thôi. Vậy là hai ông, người đọc báo, người soát theo bản gốc. Không sai một dấu phảy. Thế là thế nào nhỉ? Truyện này hắn đã gửi dự thi truyện ngắn và đã được đăng, lại nghe loáng thoáng được vào chung khảo. Thế mà bây giờ nó ở đây với cái tên tác giả khác. Thôi chết rồi! Chắc thằng xỏ lá này làm như vậy để vu cho mình đạo văn, hoặc chí ít cũng phạm quy vì truyện dự thi không được đăng trên các báo khác. Hắn đần mặt ngẫm ngợi. Vậy thì phải kiện!
Hắn tập hợp tất cả chứng cứ khẳng định Chị Lượt là của mình và hùng hục viết một lá đơn. Mở đầu đơn kiện hắn viết rất hùng hồn: tôi được cha mẹ và nhà trường xã hội chủ nghĩa dạy rằng: ăn cắp là tội rất xấu. Của ăn cắp mà lại khoe ra trước bàn dân thiên hạ là của mình thì đó là loại vô liêm sỉ. Và tôi cũng dạy các con tôi như thế... Đại loại nội dung lời lẽ rất kiên quyết nhưng cũng không kém phần bóng bảy văn hoa để chửi thằng ăn cắp là thằng khốn nạn. Sau đó tiếp tục chửi thằng mua đồ ăn cắp. Thằng mua đồ ăn cắp là thằng ngu: ngu vì bỏ ra đồng tiền mà lại vớ phải đồ ăn cắp và hơn nữa làm báo mà không đọc báo thì bao giờ mới khá lên được. Truyện người ta đã đăng sờ sờ dự thi mà một tờ báo ngay sát nách không biết gì. Sau khi chửi thằng khốn nạn và thằng ngu xong thì hắn yêu cầu: Thằng kia phải xin lỗi, tòa soạn phải đính chính, phải trả nhuận bút cho hắn và thanh toán mọi phí tổn đi lại. Viết xong, hắn mặc quần áo, moi trong va li số tiền vừa bán gà để làm lộ phí, tranh thủ làm vài tợp rượu và ra khỏi nhà, không đợi vợ con về. Rượu vào khí thế bừng bừng, nhưng cái xe đạp cà khổ lại giở chứng, cứ vài chục vòng lại phải xuống lắp xích. Điên tiết hắn lao cái xe xuống kênh. Cần gì! Đợt này thắng kiện ông mua cái khác. Rồi hùng hục đi bộ gần chục cây số ra bến xe.
Hăng quá nên hắn quên cả thời gian. Đến bến xe mới hơn tám giờ tối mà xe chạy Hà Nội phải năm giờ sáng hôm sau mới có. Nhà văn của chúng ta buộc lòng phải nằm ở bến xe. Một tay hắn khư khư trong túi quần để chắc chắn ba trăm không bị bay mất, một tay vỗ muỗi. Gà gật rồi cũng qua đêm...
Trong khi hắn gà gật chiến đấu với lũ muỗi ở bến xe thì vợ hắn ở nhà ngồi khóc!...
*
* *
Giấc trưa xe mới đến Hà Nội. Đói, mệt và mất ngủ. Người hắn đờ ra. Ghé một cái quán, gọi chén nước chè cho tỉnh táo. Nhẩm trong đầu xem đã tiêu hết bao nhiêu, tính xem có nên ăn cái gì không? Nếu ăn thì nhỡ ra không đủ tiền về. Nhưng không ăn thì đói quá. Sẩy nhà ra thất nghiệp. Ở nhà, vợ ép lắm hắn cũng chỉ lưng bát cơm còn toàn uống rượu. Bây giờ hắn đang thèm rượu lắm. Nhưng còn phải làm việc quan trọng. Rượu vào người ta lại bảo là thằng say. Thằng say mà vào một tòa báo cỡ cả nước thì họ tống cổ. Nhưng làm cách nào cho hết trưa. Trong khi đang mải tính toán, hắn chợt nghe chủ quán cằn nhằn chửi vợ: cái đồ đàn bà thối thây! Giờ này không mang cơm ra để ông chết đói. Hắn bắt chuyện ngay. Ông có biết đàn bà được sinh ra như thế nào không? Đàn bà là cái rẻ xương sườn của đàn ông. Các ông nghe kinh Thánh nói vậy chứ gì. Nhưng đếch phải. Tay chủ quán há hốc mồm, cả đám xe ôm đang dài cổ đợi khách cũng tròn mắt nghe hắn diễn thuyết... Để tôi nói cho mà nghe. Ngày xưa Chúa Trời sinh ra mỗi một thằng đàn ông. Tay đàn ông ấy ở một mình buồn quá bèn xin với Chúa cho thêm người nữa xuống làm bạn. Chúa đồng ý, cho một ông thánh xuống trần gian lấy của tay đàn ông kia một rẻ xương sườn đưa về cho Chúa để Chúa nặn thành đàn bà. Thì kinh Thánh cũng nói vậy mà- mấy tay hóng chuyện nói chen. Để im tôi nói cho mà nghe. Ông Thánh được cử xuống hạ giới mò hết mọi xó xỉnh mà không thấy tay đàn ông đâu. Chả là hắn ta uống rượu say khướt rồi chui vào một chỗ ngủ líp ba ga mấy ngày liền. Thánh cũng chả tìm thấy. Chợt có một tên quỷ trông thấy Thánh. Tên quỷ này trước cũng ở trên Thiên Đường nhưng vì hắn can tội hay ngồi lê lắm điều, tham tiền, cứng cổ đến mức Chúa Trời cũng không chịu nổi nên bị đày xuống trần gian. Quỷ trông thấy Thánh thì hoảng quá, tưởng rằng Thánh tìm bắt mình để đầy xuống địa ngục. Hắn bèn chui đầu vào một quả núi nhưng lại lòi đuôi ra. Thánh cũng trông thấy Quỷ, liền gọi để hỏi xem thằng Người đâu. Quỷ khiếp quá càng chui sâu. Thánh nắm lấy đuôi Quỷ, giật mạnh. Một đằng cố chui vào, một đằng cố kéo ra... thế là phựt một phát. Quỷ chui tọt vào lòng núi. Còn lại một mình Thánh với cái mẩu đuôi Quỷ. Không tìm được thằng Người, sợ bị chúa Trời phạt, Thánh bèn dùng phép nặn mẩu đuôi Quỷ thành cái xương sườn của thằng Người đưa về cho Chúa. Chúa Trời cả tin mới nặn tiếp thành đàn bà. Vậy cho nên mới có đàn bà như ngày nay. Hố hố... há há... cả bọn cười ngặt nghẽo. Lão này cũ người mà kể chuyện hay ra phết! Tay chủ quán cũng mải nghe quên cả chửi vợ. Lúc hắn đứng lên, chủ quán đã không lấy tiền nước lại còn mời thêm điếu thuốc lá. Lần đầu tiên sử dụng cái vốn moi ra từ những câu chuyện từng đọc, thấy đạt hiệu quả kinh tế rõ rệt, hắn đâm ra hứng khởi. Ô hay, thành phố cũng chỉ như vậy thôi ư? Những chuyện như vậy có đầy trong sách. Nông thôn đã đành, làm gì có sách mà đọc. Còn thành phố, liệu có mấy người đọc sách. Vậy thì chán thật. Viết để làm gì? Khốn nạn cả đời, in mấy trăm cuốn, lỗ chỏng vó mà có mấy người đọc. Chả trách mấy ông nhà văn chuyên nghiệp cũng kêu chán. Sách bán chạy là sách dạy làm quan, sách dạy làm giàu, sách dạy cách làm tình thế nào cho sướng và... sách chế độ chính sách. Hay thật. Tập hợp các văn bản của Nhà nước, mất tý công đánh máy in thành sách, bán hàng nửa triệu bạc một cuốn. Những cuốn sách ấy lại nằm ở những giá sách sang trọng của các đại gia. Chính sách thay đổi chóng mặt. Sách in chóng mặt. Còn những chiêm nghiệm ám ảnh cả một kiếp người, những nỗi niềm nhân thế... mấy ai để ý. Cho nên mấy ông nhà văn nghèo cũng phải.
Thôi thì cũng phải ăn rồi đến đâu thì đến. Hắn thất thểu vào một hàng cơm bình dân. Lúc này cũng đã hơi quá trưa. Ông chủ nhà đang uống rượu một mình. Thấy khách đến vào cái giấc đáng lẽ phải được nghỉ nên ông ta có vẻ khó chịu, mặt mũi hằm hằm. Nghe nói ở Thủ đô cứ chủ quán nào hằm hè thì quán ấy mới đắt khách. Hắn làm như không thấy điều ấy, gọi một suất cơm canh mười ngàn. Cơm đưa lên. Quen thói ở nhà lại thèm chén rượu. Chai rượu lại để ngay cạnh. Sự cám dỗ của quỷ chiến thắng sức ép của công việc đang chờ. Thôi cũng đành! Hắn rót một chén. Nhìn lên, thấy bức trướng mừng thọ, hắn đưa đà: Cụ nhà vừa được mừng thượng thọ! Chủ nhà gật đầu. Rượu vào bốc lên. Hắn bắt đầu thao thao. Vậy là nhà ta có phúc lớn. Chủ nhà nhìn hắn hoài nghi. Này nhé! Ông có biết thiên tước là gì không. Thiên tước là tước lộc của Giời, mà Giời thì rất công bằng. Ai xứng đáng mới được, chứ không như trần thế chạy chọt cửa sau, hối lộ cửa trước mới được ban tý chức tước thì vênh mặt lên thực ra chẳng có tài cán đức độ gì. Mà người xứng đáng phải là người hiền lành tử tế thì giời mới ban cho tuổi thọ. Cụ nhà ta thượng thọ là được ban thiên tước. Các cụ hiền lành để phúc cho con cháu. Tôi nhìn ông thấy dung nhan rạng rỡ lắm, làm ăn có vẻ nhuận lắm. Ông thấy có đúng không. Nhờ các cụ đấy! Ông chủ nhà khoái quá bê cả thức ăn cả rượu sang ngồi với hắn. Được thể hắn nói thao thao. Chủ nhà há hốc mồm nghe, sướng tê người, liên tục rót rượu vào chén hắn. Nhưng vì còn công việc trước mắt nên hắn uống dè dặt. Lúc hắn ra đi, chủ nhà chỉ lấy mười ngàn tiền cơm, không lấy tiền rượu, sau đó còn bắt tay giật giật rất nhiệt tình và hẹn hò lưu luyến lắm. Hắn cảm ơn và liếc chai rượu vẫn còn nhiều mà tiếc rẻ. Giá mà không phải cái vụ văn chương thổ tả này thì có phải hơn không!
*
* *
Tay bảo vệ tòa soạn báo Thời Cuộc nghi ngại nhìn một hình nhân không ra già không ra trẻ, áo quần lếch thếch, đầu tóc bù xù, loẹt quẹt đôi dép lê mòn vẹt cả mũi. Nhà văn của chúng ta xông thẳng vào tòa soạn. Này ông kia đi đâu? Đi gặp Tổng Biên tập!... Đứng lại! Xuất trình giấy tờ!... Hắn làm như không nghe thấy, vẫn xăm xăm đi vào. Tay bảo vệ hoảng hốt chạy theo ngăn lại: Văn hóa công sở để đâu. Vào cơ quan phải xin phép chứ! Hắn quay mặt lại: Sao! Phải xin phép à! Vậy ăn cắp bài, đăng bài không xin phép tác giả là văn hóa gì? Phòng Tổng Biên tập ở đâu? Thấy đối tượng chắc cũng không phải tay vừa, ít nhất cũng là cấp cùn trở lên... tay Bảo vệ dàn hòa: Thì ông cứ vào đây tý đã. Hắn vào phòng thường trực ngồi đợi. Tay bảo vệ bỏ đi vào một hành lang tối. Nhìn vào hành lang tối mờ mờ như cái lỗ lươn, tự dưng hắn ngại ngại. Người ra vào nhiều nhưng không ai để ý đến hắn. Đợi mãi chẳng thấy ai bảo sao, tay bảo vệ cũng không thấy đâu. Quái thật! Lại có cái loại văn hóa bảo khách vào phòng rồi biến mất hút con mẹ hàng lươn. Chả nhẽ cứ ngồi mãi ở đây. Thấy một cô từ trong cái lỗ hun hút đi ra, hắn vội chạy theo: Xin lỗi.. cho tôi hỏi: Phòng Tổng Biên tập ở đâu. Cô này vẫn cắm đầu đi: tầng ba! Đúng là thời đại công nghiệp. Thông tin người ta chỉ cung cấp vừa đủ, không thừa thiếu chữ nào. Nhưng thôi, hãy cứ lên tầng ba. Hắn đoán cầu thang chắc ở cuối cái lỗ hành lang hun hút. Đúng thế thật.
Tầng hai... tầng ba... Hắn đi dọc hành lang tầng ba, ngửa cổ tìm phòng Tổng Biên tập. Đây rồi. Hắn gõ cửa. Không có tiếng trả lời. Phải ba lần mới nghe thấy: đang bận, hãy chờ! Chờ đến hơn chục phút thì thấy cánh cửa mở. Một cô môi son má phấn bước ra: Xong rồi, ông vào đi... Hay thật! Chả biết xong cái gì mà thấy cô ta vừa lắc mông vừa chỉnh áo. Ông Tổng đầu hói tròn như quả bưởi đang chăm chú trên máy vi tính không ngẩng đầu lên miệng hỏi: Có việc gì? Hắn trình bày. Tổng Biên tập lơ đãng nghe rồi bảo: Ông xuống tầng hai làm việc với biên tập văn hóa văn nghệ của báo. Thế nhé!
Xuống tầng hai. Lại ngửa cổ vừa tìm vừa hỏi thăm Phòng Biên tập văn hóa văn nghệ. Rồi cũng tìm được. Tiếp hắn là một cô váy ngắn chân trần, đi bốt trắng. Hắn nhìn đôi bốt thầm nghĩ: Nắng vỡ giời, nóng chảy mỡ lại còn đi ủng. Mà sao đôi ủng này lắm lỗ xỏ dây thế. Để xỏ dây buộc ủng có khi phải mất hàng tiếng đồng hồ chứ chả chơi. Tự dưng hắn liên tưởng cô này là con cháu Tôn Ngộ Không. Ừ đúng là giống Tôn Ngộ Không thật vì mặt thì bự phấn trắng vẽ vời rất cẩn thận, còn cái tai, cái cổ thì vẫn nguyên bản nâu nâu tươi màu suy nghĩ. Cô biên tập khi đọc đơn kiện của hắn lộ rõ vẻ hốt hoảng. Sở dĩ hắn biết được điều ấy vì thấy vành tai của cô ta tía dần lên theo từng dòng chữ trong đơn mà cô ta đọc được. Nếu bị phản ứng thì hắn sẽ phản công bằng các chứng cứ đã sắp xếp theo tinh thần của công ước Bơn. Nhưng không đến mức đó. Cô ta sẽ sàng: Đúng là chúng tôi có lỗi vì quá tin vào người gửi bài. Xin khất anh sáng mai chúng tôi sẽ giải quyết vì còn phải xin ý kiến Tổng Biên tập. Hắn bảo: Tôi không đợi được đến sáng mai! Yêu cầu phải giải quyết ngay! Anh thông cảm vì chiều nay tài vụ đi vắng. Vả lại anh đi mấy trăm cây số lên đây cũng phải nghỉ ngơi tham quan Thủ đô chứ ai lại về ngay. Hắn nghĩ thầm: Tham quan cái con khỉ! Tiền đâu mà tham quan? Lại còn phải chỗ ăn, chỗ ngủ nữa chứ. Đếch làm việc kiểu cù nhầy này nữa. Ông kiện lên Bộ cho các người biết tay. Vậy là hắn hùng hục ra bến xe.
Ra bến xe lại vào quán nước lúc trưa. Chủ quán nhận ra hắn ngay, vội đon đả chào mời, cánh xe ôm cũng đến hóng chuyện. Nhưng bây giờ hắn chẳng còn bụng dạ nào để tếu táo được nữa. Làm một hơi hai cốc nước chè, hắn ra xe. Nghĩ đến đoạn đường mấy trăm cây số hắn ngán ngẩm. Tống liền hai cốc nước đâm ra mót đái, hắn phải đi giải quyết cái nhu cầu không thể trì hoãn... Thoải mái quá! Nhưng vừa bước ra khỏi nhà vệ sinh thì bị một bà béo chặn lại: Tiền? Hắn hỏi lại: Tiền gì? Tiền đi tiểu chứ tiền gì. Mắt mù không nhìn quy định à. Hắn nhìn lên cái bảng sơn xanh. Thành phố hay thật. Đi đái cũng mất tiền. Hắn đưa cho bà Vệ Sinh một ngàn. Còn thiếu! Hắn ngạc nhiên: Ơ hay bảng giá quy định một ngàn, tôi trả một ngàn sao lại còn đòi nữa? Buổi trưa anh cũng vào đây chưa trả tiền. Bây giờ phải trả cho đủ! Hắn ớ ra nhưng bụng cũng phải công nhận là bà ta nói đúng. Nhưng hắn còn cố vớt vát: Buổi trưa tôi có vào đây đâu mà đòi? Gớm nhỉ! Lại còn chối. Người ngợm như hình nhân, đầu như tổ quạ, quắt queo như thằng nghiện thế kia giá có đi đâu một năm quay lại thì chỉ mù mới không nhận ra. Trả một ngàn nữa ngay kẻo không xong với tôi đâu!... Nhìn bà Vệ Sinh đẫy đà với cây chổi lăm lăm trong tay như Bát Giới cầm đinh ba thì hắn hơi hoảng. Mất thêm một ngàn nữa. Người thành phố sòng phẳng thật! Cái hay ho mình nói ra đằng mồm, người ta sướng, người ta trả công cho mình. Cái mình thải ra đằng đuôi, người ta phải dọn thì người ta bắt mình phải trả tiền. Đúng thôi! Vậy thì tại sao mình lại không thể đòi thằng Thời Cuộc phải sòng phẳng? Phải làm cho ra nhẽ chứ sao lại chịu về không. Quay lại! Vậy là hắn lại hừng hực khí thế đi bộ về tòa soạn báo Thời Cuộc.
Đoạn đường từ bến xe đến tòa soạn Thời Cuộc không phải là ngắn. Hắn cứ cắm cúi đi cho đến khi thấy bóng mình in trên mặt đường mới nhận ra thành phố đã lên đèn. Một mình lạc lõng giữa ồn ào xe cộ hắn bỗng thấy sợ. Giả sử có một cái xe mất tay lái... mình có bị làm sao... thì vợ con không biết, không ai biết... thì cũng chỉ như một kẻ ăn mày... Vô nghĩa, vô nghĩa hết! Tự nhiên thấy thèm người. Thèm có một người để tâm tình, chia sẻ... Nhưng ai có thể tâm tình chia sẻ. Mà đêm nay mình sẽ ngủ ở đâu. Lại vạ vật vỉa hè sao? Hắn lục túi tìm tờ giấy ghi số điện thoại của bạn bè. Trần Văn X... Điện thoại: 0483... Đây rồi. Sao mình vô tâm, anh ấy mấy lần hẹn nếu có dịp lên Hà Nội thì vào nhà chơi...
Hắn vào một dịch vụ điện thoại gọi đến nhà ông X.
Người nhà nghe máy rồi bảo ông X không có ở nhà. Hắn hỏi thêm thì mới biết ông đang nằm viện. Ung thư giai đoạn cuối. Vậy là hắn đến Bệnh viện. Ông X là nhà thơ. Sở dĩ hắn biết ông vì ông là người cùng quê, trước cùng sinh hoạt trong Hội Văn nghệ tỉnh sau chuyển lên Trung ương. Cả hắn và ông cùng là đệ tử Lưu Linh, cùng thích văn chương nên thân nhau. Hắn kính trọng ông là đương nhiên vì ông có thực tài và sống rất chân tình. Còn ông quý hắn bởi hắn thật thà và thương hắn bởi hắn nghèo. Thỉnh thoảng gặp nhau hay khi ông đến nhà chơi thường dúi cho hắn mấy chục. Chẳng nhiều nhặn gì vì ông không giàu, nhưng vợ chồng hắn rất cảm động. Một miếng khi đói bằng một gói khi no. San sẻ cho nhau chút đỉnh là cho nhau niềm vui, động viên nhau tinh thần là chính để mà tồn tại. Có lẽ chỉ những nhà văn mới làm được như vậy.
Ông Nhà Thơ mừng đến rưng rưng khi được nhà văn xóm đến thăm. Khi một mình đối đầu với cái kết cục tất yếu của kiếp người thì người ta cảm thấy mọi sự chăm sóc thăm hỏi của đồng loại là thiêng liêng. Hắn cũng đọc được trong mắt ông sự cố gắng níu kéo đến tuyệt vọng. Hình như hắn đến làm ông có thêm nghị lực để hy vọng. Hắn biết điều ấy nên cố gắng làm cho ông vui và bảo rằng bệnh tật của ông chỉ là ốm xoàng, một trận cảm vặt. Tếu táo và trân trọng, hắn kể với ông cái việc phải lên thành phố. Nhà Thơ chăm chú nghe nhưng lộ vẻ mệt mỏi. Nhận thấy điều ấy, hắn hỏi ông: Anh mệt à. Bây giờ anh thèm cái gì nhất? Ông thều thào: Rượu! Nhưng chúng nó không cho uống... Mình cũng chả dám đòi... Mọi người trong nhà đang cuống lên chạy tiền thuốc cho mình mà mình lại đòi rượu nữa thì nhẫn tâm quá... Tưởng gì! Hắn hăng hái đi mua một chai rượu. Cẩn thận hắn rót rượu vào cái chén nhỏ. Nhà Thơ run run nâng cái chén, mắt nhìn sâu vào những giọt rượu trong vắt. Ông đưa chén rượu lên ngang mặt, tận hưởng mùi thơm quyến rũ và từ từ đưa chén chạm môi. Môi ông như được men rượu làm hồng lên. Mắt ông nhắm lại. Những giọt rượu được ông giữ lại trong miệng một tý để tận hưởng vị cay nồng rồi mới nuốt. Một tiếng khà nhè nhẹ nhưng hẫng. Hắn biết tiếng khà là thói quen của những người uống rượu. Có lẽ Nhà Thơ kìm tiếng khà ấy lại vì ông không muốn nó mang đi hương vị của những giọt rượu đang đọng trong cổ họng. Tuyệt vời! Hắn ngắm Nhà thơ uống rượu mà rưng rưng. Đời hắn cũng đã uống không phải là ít rượu. Nhưng hôm nay hắn mới tận mắt chứng kiến sự hoan lạc đến tột đỉnh của người uống rượu. Này chú! Ông nói, giọng trong hơn- Buồn cười thật đấy. Để kéo dài sự sống thêm mấy ngày, người ta bắt mình phải đoạn tuyệt với những cái gì mà mình thích. Thêm mấy ngày nhạt nhẽo vô vị ấy thì phỏng có ích gì. Còn khổ hơn cái chết. Vậy thì việc gì phải kìm hãm. Tuyệt thật! Chú cho tôi xin tý nữa. Hắn rót thêm một chén. Vẫn những động tác như vừa rồi, nhà thơ uống và khà. Lần này thì tiếng khà thoát ra thoải mái hơn. Mặt ông hồng lên. Cặp mắt linh hoạt như người không hề có bệnh. Phấn khởi vì những thay đổi đến bất ngờ ở Nhà Thơ, hắn hỏi: Anh còn nhớ câu thơ: Nếu ngày mai tôi chết... Vừa đọc được một câu hắn đã thấy mình hớ. Ai lại đi nói về cái sự chết chóc với người đang trọng bệnh. Nhưng Nhà Thơ nói ngay: Nhớ chứ! và ông đọc liền một hơi Nếu ngày mai tôi chết. Thì chẳng mong gì hơn. Âm thầm một giọt lệ, rỏ xuống những nguồn cơn.‘*’ Những nguồn cơn... Ông lẩm bẩm. Những nguồn cơn... Mày sướng nhất đấy em ạ! Tự nhiên ông thân mật xưng hô mày tao. Cái việc mà mày vừa nói chứng tỏ mày đã làm được việc mà không phải ai cũng làm được. Thứ nhất: cái thằng mà nó lấy cắp truyện của mày là người tri âm với mày rồi. Mày hỏi vì sao à? Để anh nói cho mà nghe. Trước hết là nó đã công nhận cái truyện của mày, nó thích cái truyện của mày. Thích quá, nó mới lấy cắp. Chả có ai lại đi lấy trộm cái mà mình không thích. Nó lại dám thay tên tác giả, thế tên nó vào tức là nó đã dám thừa nhận ý của mày trùng với ý của nó. Thứ hai: Thằng Thời Cuộc nó đăng truyện ấy lên là nó đã công nhận giá trị của truyện. Một cái truyện mà hai thằng báo to cùng công nhận, cùng đăng thì tuyệt quá rồi còn việc gì phải băn khoăn. Thứ ba: viết ra được nhiều người biết đến là tốt quá. Chính mày viết xong mày cũng chẳng quan tâm số phận của nó như thế nào sau khi gửi đi. Có người bảo mày mới biết cái vụ này. Đã có người đọc quan tâm đến mức ấy là hạnh phúc đấy em ạ!... Nhưng mà em tức lắm! Tức không chịu được vì nó dám thay tên tác giả! Vậy là mày lại háo danh rồi. Viết mà người ta đọc, người ta chiêm nghiệm, chia sẻ và đồng cảm với điều mình viết là được rồi. Cái tên nào thì cũng vậy thôi. Để người đọc người ta nhận thấy gì sau trang viết ấy mới là quan trọng. Viết để có cái danh thì chẳng để làm gì. Đấy mày xem. Có những người nổi danh nhà văn lớn nhưng có gì đáng để đời. Viết xong tung hô một thời rồi sau đó mấy ai nhớ đến. Mà cũng lạ. Viết văn cũng có nhà văn lớn, nhà văn bé, nhà văn chuyên nghiệp, nhà văn nghiệp dư... Chả phải cũng phân chia đẳng cấp những người viết hay sao? Không có đẳng cấp nào hết. Chỉ có tác phẩm hay và tác phẩm không hay. Nhà văn lớn mà đẻ ra cái tác phẩm dở thì dù tung hô đến mấy cũng đáng vứt vào sọt rác. Đấy là chưa kể các ông ấy còn viết để công kênh cho mình. Nói thẳng là viết vì danh để rồi văn chương nhạt hoét, khoa trương cái này cái nọ, nhân danh cái này cái nọ... Em có cảm giác là nó xỏ lá em, làm cho em bị phạm quy trong cuộc thi truyện ngắn lần này. Quên đi! Hy vọng được giải thưởng ư? Nghiệm ra rằng những tác phẩm để đời chưa bao giờ được nhận bất cứ giải thưởng nào. Vì sao? Chắc mày thừa biết. Thế thì sao lại lao tâm khổ tứ vì nó. Tác phẩm đã được đăng, đã được công chúng chấp nhận thì bây giờ nó là của công chúng, không còn là của riêng mình nữa. Cái gì còn lại là của mình, mình phải đòi. Nhuận bút chẳng hạn, đó là công sức của mình, mình phải đòi. Thế thôi! Nói một hồi, nghe chừng nhọc. Ông ngồi im như tiếc nuối, như hờn dỗi. Hắn lại rót chén rượu đưa ông, rồi với bản tính tếu táo hắn đọc: Nếu ngày mai tôi chết, thì chả mong gì hơn, đổ đầy quan tài rượu, rồi chôn đâu thì chôn! Hay! Nhà thơ vùng dậy cười ha hả... Nét cười sảng khoái sáng bừng lên trên khuôn mặt u ám.
Đêm ấy hắn ở trong bệnh viện cùng với Nhà thơ.
*
* *

Hôm sau hắn lại đến Tòa soạn báo Thời cuộc. Cô Biên tập con cháu Tôn Ngộ Không đi ủng xỏ dây dẫn hắn xuống Phòng Tài vụ nhận tiền. Cô tài vụ bảo báo mới ra chưa có nhuận bút. Hắn khùng lên: vậy thì tôi sẽ kiện. Cô Biên tập vội vàng chạy đi vay tiền đưa cho hắn. Thôi anh cầm tạm. Bài của anh, chúng em đánh giá là bài hay nhất và trả nhuận bút mức cao nhất của báo. Chúng em sẽ làm theo yêu cầu của anh. Lần sau nếu có bài anh gửi trực tiếp cho em. Mong anh hợp tác. Hắn nghĩ cũng chẳng có thể hơn và có hơn cũng chẳng làm gì. Hắn cảm ơn và cầm tiền. Thôi đành vậy!
Đã định về ngay, nhưng vẫn băn khoăn... hắn ngược vào Bệnh viện để chào Nhà Thơ. Có cảm giác đây là lần gặp sau cùng. Bàn tay Nhà Thơ nắm lấy tay hắn như không muốn rời. Hắn mở số tiền vừa nhận cùng với số mang đi còn lại, lấy riêng ba trăm để trả cho vợ và tính toán vừa đủ đi xe về đến nhà; Số còn lại hắn đưa cho Nhà Thơ: Em có mấy đồng biếu anh để anh bồi dưỡng. Anh thông cảm. Nếu có điều kiện vợ chồng em lên thăm anh sau... Nhà Thơ bật khóc. Hắn cũng khóc rồi vội vã lau nước mắt để ra về vì sợ dùng dằng thêm tý nữa thì hắn cũng khó lòng về nhà trong ngày được.
*
* *
Khoảng một tuần lễ sau, vẫn ông bạn viết hôm nào lại mang tờ Thời Cuộc đến nhà hắn. Đây, báo nó đã đính chính rồi ông ạ. Đâu! Chỗ nào! Rà mãi, rà từng dòng đến trang bảy mới thấy một cái mẩu nhỏ xíu nằm dọc ở góc cuối. Hắn phấn khởi xem xong đưa cho vợ. Vợ hắn bảo: Lãi to rồi. Hắn ngơ ngác: Lãi cái gì? Vợ hắn thản nhiên: lãi được cái Đính chính! Chuyến đi của ông lãi được mỗi cái Đính chính. Hắn lấy thước ra đo cái lãi của mình: bề ngang đúng hai phân, bề dọc năm phân... Vợ hắn còn cẩn thận hơn, thị đếm từng chữ và hùng hồn công bố: vừa hai mốt chữ (!)
Buổi chiều, đứa cháu nhà bên chạy đến bảo chú sang nghe điện thoại. Lúc về hắn ngồi khóc. Vợ hắn đi làm về thấy hắn đần mặt, mi mắt mọng nước liền hỏi: sao có việc gì mà sụt sùi? Anh X mất rồi! Vợ hắn lặng người. Lúc nào? Anh ấy mất lúc trưa nay. Chị ấy mới điện cho biết. Vậy sao ông vẫn còn ngồi đây? Hắn không nói gì. Vợ hắn vào buồng lục sục một lúc rồi cầm cái gói tiền ba trăm đưa cho hắn: Mình đi Hà Nội luôn đi! Lên trên ấy cho có anh có em. Giá mà tôi cũng đi được... Vợ hắn rơm rớm nước mắt: Thôi cứ nói với chị ấy thông cảm cho tôi. Mình đi ngay đi... Đọc thêm!